Tôi cứ lăng xăng đi đi lại lại, ngó quanh hai gian nhà tranh tre vách đất lụp sụp. Cụ Hân khom khom cái lưng còng. Khuôn mặt cụ già nua, nom y như cái xơ quả mướp; hai cái chân, hai cái tay chẳng khác nào mấy cái que rào khô. Một tay cụ chống gậy, tay nọ bấu vịn một cách khó nhọc nấy cái chõng tre - cái chõng từ đời nảo đời nào, mốc meo, ẽo ợt. Cố ngửa cái cổ nhăn nhúm, rồm rộp như cái bao xác rắn, cụ ngước nhìn tôi, giọng vếu váo:

 


- Vẫn cái nhà từ ngày cháu đi đấy. Dễ chừng đến hai chục năm chứ nhỉ?

- Dạ, vừa đúng mười tám năm! Cô chú Bái làm ăn có khấm khá? Tôi cố ý nói chỉ vừa đủ người bình thường nghe được, để xem bà cụ giai lão có còn đôi tai minh mẫn. Ấy mà cụ nghe thấy.

- Lạy giời, cơ vào độ hai năm nay làm ăn cũng xuôi. Nài - cụ Hân dờ dờ víu ống tay áo tôi kéo xuống, như thể nghe mới rõ: Có đận, vợ chồng nó bán cây giống kiếm được đến hơn năm triệu bạc chứ ít à?

Tôi hỏi đùa:

- Vợ chồng cô chú ấy khoe với cụ hay sao mà cụ lại biết?

- Nào có đứa nào nó khoe, nhưng làm gì sao tôi lại chẳng biết. Cơ mà thôi, kể làm gì…

Rồi để mặc tôi ngồi đó, cụ bước đến bên cửa sổ đăm đăm nhìn ra phía ngoài. Mấy chốc cụ lại thở dài thườn thượt nghe buồn tẻ. Nhưng sự ấy chẳng thể kéo dài được mãi. Khi đó cụ mới quay lại và đột nhiên hỏi tôi: “Cháu có còn nhớ cái hồi nước lụt?”…

Bà cụ lại nhắc đến ngày xưa?! Tôi chợt hiểu và thoáng nhận ra nỗi niềm của cụ; nỗi day dứt của một bà cụ già khi cứ phải cố bám, cố sống. Dẫu là sống bởi sự tẻ nhạt, còm cõi, sống khổ sống sở với cái thực tại. Những lúc ấy thì dễ thường đối với cụ, có lắm nỗi buồn vui chân chất từ quá khứ xa xăm lại hiện về.

Ngày xưa - đâu phải chỉ riêng cái năm bảy mốt (1971), nước lụt, mà là cả quãng thời gian đằng đẵng mấy chục năm, mẹ con bà Hân sống trong cảnh mẹ góa con côi ở cái xóm Miếu Trên, nghèo, heo hút. Với họ, cuộc sống quá ư lận đận, gieo neo. Còn bà, bà đã dành cả tình thương cho đứa con cưng. Nó là con gái bà, giọt máu duy nhất của cuộc đời bà.

Mùa lụt lớn năm đó, Lan đã 14 tuổi. Cô có vóc dáng nhỏ nhắn, không xinh nhưng nhờ trời ban cho cái nước da - nó cứ trắng nõn trắng nà, trắng như trứng gà bóc. Lan tính tình hiền dịu. Ít nói. Hay cười. Mỗi khi cô cười, để lộ hai hàm răng hến đều chằn chặn với một bên má núm đồng tiền nom có duyên. Cô hay lam hay làm, chẳng muốn rời mẹ đến nửa bước.

Xế trưa hôm ấy, nước đã lên tới lưng chừng nhà. Ông trời còn không thương, đổ mưa như trút nước. Rồi nước réo ồng ộc, chảy mỗi lúc một mau hơn. Nước ở đâu đổ về nhiều quá. Cả một vùng trời nước mênh mông. Nước chảy cuồn cuộn, xô lên những đợt sóng lớn vỗ vào lưng nhà, trông như những con… thuồng luồng đang đói ăn chồm tới vồ mồi. Nước mỗi lúc một dâng cao hơn. Rác rưởi, tre, gỗ mục, rồi giường, tủ, bàn ghế, cối giã gạo… trôi theo dòng nước, nổi lềnh bềnh, dạt vào các khe góc tụ thành một đống lớn. Lũ sinh vật nào rắn, rết, giun, chuột, gián… chui rúc dưới các đống rác chạy nước, tránh mưa, chúng ngoi lên cả nóc nhà, nóc bếp, thân cây. Cá nhiều vô kể. Cá rô, cá diếc, cá chép, cá chuối… nhảy cả lên bè, lên chõng. Không cần phải dùng lưới, vợt, chẳng phải câu cũng dễ dàng bắt được…

Hai mẹ con bà Hân ngồi nhìn nước dâng, lo lắng, sợ hãi:

- Rồi nó sẽ cao tới đâu?

Mấy hôm trước, khi nghe cái tin dữ “vỡ đê Văn Thai”, bà con đã lo sốt vó; cũng ngày đó chốc chốc lại nghe tin báo “nước về đến Bỉnh Di rồi”, “nước đã tới Ngã Tư Mắc”… Ấy thế mà cái nhà chị Khoan hàng xóm vẫn cứ bình chân như vại. Chị bảo:

- Ôi dào, làm gì mà có nhiều nước, họa nước có “kéo” về tới cái xóm Miếu Trên này cũng chỉ ngập dưới chân vườn, cao như cái gò cái đống này nhà tôi. Ai chứ, tôi là tôi dứt khoát không phải chặt dù chỉ một cây chuối…

- Nhà chị Khoan khác. Nhà chị ta, hai vợ chồng còn sung sức lo lúc nào mà chẳng được. Cái ngữ nhà mình… Cảnh mẹ già, con dại thì mẹ con phải biết đường mà lo trước chớ dám để “nước đến chân mới nhảy” - bà Hân ngẫm nghĩ. Rồi bà hớt hải gọi con gái:

- Lan ơi Lan! Con gắng chạy xuống nhà anh Téo còn kịp khi nước chửa về tới đầu làng. Bảo lên ngay giúp u! Đi mau đi…

Bà Hân cậy nhờ người đốn cho ít cây tre, buộc nêm vào với cái chõng cho chắc rồi cột thật chặt lên tít tận xà nhà. Lại đặt mấy thanh tre làm một cái giá để lấy chỗ đựng vài ba thứ đồ dùng. Có bao nhiêu chuối ngoài vườn, bà cũng nhờ đốn bằng sạch. “Làm lấy vài cái bè chuối, phòng khi nước có leo thang “ăn ở” với người dài ngày thì còn có cái mà bám, mà đi lại”, bà lo xa…

“Hôm kia, nước mới vào đến trong nhà. Hôm qua, nước dềnh lên mức hơn ba gang tay, ngồi trên chõng còn phải thò dây thừng vực nước. Ông trời ác quá. Mưa từ sáng đến giờ, nước dâng mấp mé bốn cái chân chõng mất rồi. Thò tay xuống đã chạm mặt nước. Không chừng đồ này…”.

- U ơi, nhà hết nhẵn gạo rồi!

Đang mải mông lung nghĩ ngợi, nghe tiếng bé Lan, bà Hân giật mình nhìn ra ngoài trời, âu yếm với con:

- Ừ, u cũng biết, nhưng vì trời xấu quá. Chờ cho mưa ngớt rồi con chịu khó đem chỗ cá ra chợ bè ở đầu Miếu đổi lấy ít gạo, về u thổi quáng quàng cho mà ăn kẻo đói.

Lan chưa biết bơi. Vừa mùa hè đây thôi, mấy đứa bạn đều đã bơi thạo bảo Lan:

- Mi chưa biết bơi! Mi có “thèm” biết bơi  thì hãy cho chuồn chuồn cắn rốn đi!

- Chỉ nói điêu! Chuồn chuồn cắn rốn mà lại bơi được? U tớ bảo, muốn biết bơi thì phải tập, phải có người lớn đứng cắp tay ngang bụng…

Gân cổ lên thế thôi, chứ nó thì nó vẫn thường hay nghe người ta nói “cho chuồn chuồn cắn rốn thì sẽ biết bơi” nhiều hơn. “Có khi đúng hay sao ấy? Không đúng mà người ta lại cứ nói ra? Người ta dối trẻ con để làm gì nhỉ???” - Lan nằm nghĩ ngợi mãi rồi chìm vào trong giấc ngủ… Trong giấc ngủ say, nó mơ thấy một ông tiên râu tócbạc phơ, má đỏ như quả đào, một taychống gậy, rẽ sông trời nhẹ nhàng tiến tới trước mặt mình. Ông tiên nở nụ cười hiền hậu: “Sớm mai con dậy, nhớ tìm bắt một con chuồn chuồn ngô rồi cho cắn vào rốn ba cái”. Dứt lời, ông tiên bay vút lên cao…

Ngủ dậy, Lan òa ra sân, ra ngõ, ngoài đường, tìm bắt chuồn chuồn. Tìm mãi không thấy con chuồn chuồn ngô nào, cuối cùng thì nó cũng bắt được một con chuồn chuồn “ông” rồi dí mạnh cái mồm con chuồn chuồn vào rốn mình, ra lênh: Cắn!...

Bây giờ, Lan đi bè hãy còn gượng. Trước đó, theo mẹ đứng bè, Lan cứ tranh đòi “để con lái cho”. Lúc này, chỉ có một mình thì Lan đành phải tranh chèo bè với mấy con… thuồng luồng. Cô cầm cây sào dài ngoằng ngoẵng chở bè, chống bên nọ, đẩy bên kia trông thật tội nghiệp. Chèo chống mãi rồi cũng ra tới ngõ ngoài, chỗ ấy là nơi giao nhau giữa ngõ với ngách nên nước chảy xiết lắm. Loay hoay đỡ cây sào dài, lại chống bên nọ đẩy bên kia, nhưng cái bè dở chứng, không tiến mà cứ xoay tròn. Lan cầm cây sào, mồ hôi vã ra như có ai gội nước, nó lấy đà cố chống một cái rõ mạnh khiến cái bè chòng chành nghiêng ngả, làm rớt cả thùng cá xuống nước. Cô vội buông sào, chộp lấy cái quai thùng. Con “thuồng luồng” chỉ chực có thế, lôi tuột cái bè chuối mong manh khỏi cô bé. Bị chới với nhưng cô kịp bấu được vào một thân cây tre. Bỗng nghe “bục”! Lan thấy nhoi nhói ở cánh tay trái. Quay sang, nhìn thấy một con rắn hổ mang bành mình quấn quanh thân cây tre, đầu nó ngóc xuống, hàm nó bạnh ra dễ sợ. Hoảng hốt, cô nhảy tùm xuống nước, miệng la hét. Rất may có bà con quanh đó đã kịp thời cứu vớt. Lan thoát khỏi cảnh chết đuối. Còn vết thương do rắn độc cắn? Bà con nhanh chân đưa bệnh nhân về nhà, đặt nằm trên cái chõng tre. Và cô đã phải mất hàng tháng trời chữa trị, chăm sóc. Ơn trời, ơn bà con lối xóm, Lan lại được cứu sống lần thứ hai.

Lúc Lan khỏi bệnh, nước lụt cũng rút hết.

Cả gia tài của hai mẹ con, ngoài cái xương nhà tre ọp ẹp, chỉ có cái chõng tre với đôi cái chum, mấy cái vại. Chõng làm giường ngủ, lấy chỗ ngồi ăn cơm, uống nước và tiếp khách; chum, vại cái đựng gạo, cái đựng nước. Nhìn cảnh tiều tụy của hai mẹ con, nhiều người quay đi giấu những giọt nước mắt. Người đời có câu: “Không ai nắm tay từ sáng đến tối”! Ở cái xóm nghèo này, xóm giềng vốn đã sống tối lửa tắt đèn có nhau. Vậy thì, “nhường cơm sẻ áo” cho những người đương cơn bĩ cực lại càng phải nhẽ với cái đạo ở đời! Mẹ con bà Hân được bà con hết lòng giúp đỡ, cưu mang, người mang cân gạo, kẻ đỡ đần mớ rau, nải chuối… Ấy rồi cũng qua ngày đoạn tháng…

Năm ấy, đang học dở lớp 7 thì Lan bỏ. Mẹ có khuyên nhủ thế nào thì cô vẫn một mực không nghe. Cô năn nỉ Mẹ: “U già rồi, u làm lụng vất vả ngần ấy năm nuôi con ăn học. Con thấy sức học nó không vào. Thôi u đừng bắt con học nữa. Con sẽ ở nhà làm thêm gánh đỡ cho u”.

Bà Hân - một chữ bẻ đôi không biết nên bà những mong cho cô con gái dượu được học hành tử tế đến nơi đến chốn, để khỏi phải mang tội với ông ấy ở nơi chín suối. Nay con gái bỏ học nửa chừng? Bà Hân chép miệng: “Thôi thì đành vậy! Âu nó cũng là cái mệnh trời, làm sao cố cưỡng?...”.

Ngày tháng như thoi đưa. Tuổi xuân của Lan cứ lặng lẽ trôi. Ngoảnh mặt lại, mới ngày nào… mà nay cô đã ở cái tuổi đuổi xuân đi. Kể ra cũng đã có vài đám trai tới rạm hỏi. Nhưng mà đám nào đến thì cô cũng tìm cách khước từ. Có kẻ không rõ hoàn cảnh, cho Lan là “đứa kênh kiệu, kén chọn lắm lắm”. Duy có bà Hân mới hiểu được lòng con gái: “Nó đã nén chịu, nó thương u cả một đời côi cút, lận đận vì con nên nó không lỡ đi lấy chồng”.

Bà thương con đến nao lòng. Một lần, bà Hân kéo cô con gái cưng vào lòng mình mà tỉ tê: “U đã ngoài tám mươi rồi, ngộ nhỡ thày con có gọi u đi thì u cũng mãn nguyện. Nhưng còn con, con phải biết lo cho thân mình. Chứ đừng vì u mà để lỡ dở cả cuộc đời”.

Nói là nói vậy. Nhưng trong lòng bà ray rứt lắm. Bà như đứt từng khúc ruột nếu phải xa con gái. Lan cũng thấu hiểu nỗi lòng của mẹ. Cô ngồi lặng lẽ, đôi mắt có những ngấn lệ rớt xuống.

Thế rồi dịp may cũng đến với hai mẹ con bà Hân.

Sớm tinh mơ hôm đó, hai mẹ con đã dậy ra cuốc vườn. Trời thu mênh mang. Những đám mây bàng bạc tựa dải lụa phất phơ, bồng bềnh phía trên cao. Gió heo may thổi nhè nhẹ đung đưa cành lá. Sớm nay, thời tiết thật dễ chịu nên Lan lao động phấn chấn không thấy mệt. Cô có cảm giác như chưa từng bao giờ thấy tâm hồn mình lại thư thái, sảng khoái, nhẹ nâng như lúc này. Cô đang mải miết xới xới luống rau cải thì bỗng có tiếng gọi ơi ới ở ngoài đầu ngõ:

- Bà Hân, bà Hân có nhà không đấy?

- Ai như tiếng anh Téo, con chạy ra xem có phải? Bà Hân giục con gái.

Lan chưa kịp bỏ xới thì đã thấy anh Téo ẩy mạnh cái xe đạp vào bờ rào đánh cái “ình”!

- Cái khỉ gió nhà anh! Đi đâu mà sớm thế? Bà Hân quở đùa.

Anh Téo toét miệng cười, vồn vã:

- Con lên tâu với u một việc hệ trọng.

Liếc nhìn sang Lan, anh cười nửa miệng: “May quá, có cả cô em tôi ở đây”.

Anh Téo là người xóm Đình, bà con họ hàng với bà Hân. Lần nào lên chơi, anh cũng tinh nói chuyện tầm phào, những mẩu chuyện chẳng ra đầu ra cuối. Đã quá quen vơi cái kiểu “nửa nạc nửa mỡ” ấy, nhưng lần này thì bà Hân cũng thấy có chút ngờ ngợ:

- Nài, tôi có phải “vén tay sửa áo” vào… hầu chuyện anh cháu không đấy nhỉ?

- Ấy ấy, không không… Anh Téo xua tay - bữa nay thì con nói chuyện rõ chi là nghiêm túc đây u ạ, mà có khi nói ngay ngoài này cũng được.

Đợi cho Lan tiến lại gần, rồi anh Téo mới liếc đôi mắt về phía bà Hân, đoạn xấp giọng:

- Nghĩ rằng, em Lan nhà mình - giá có phải duyên phải lứa mà anh chồng ở rể được thì vẹn cả đôi đường. Con nói thế có trúng với ý em Lan không nhỉ?

- Kể được như ấy thì còn gì hơn! Nhưng mà thực hư thế nào? Sao lại “em Lan phải duyên phải lứa” là ý làm sao? Anh cứ nói toạc móng heo ra xem nào? Đến lượt bà Hân cuống quýt, hỏi dồn.

- Vâng! Nếu vậy thì con nói: “Có nhà anh Bái…”.

- Anh Bái thì em còn lạ gì. Nhưng…

- Ấy, cô cứ để anh nói hết đã. U ạ, đúng là người ta đã có vợ và hai con. Cơ mà vợ bỏ đi biền biệt đã hơn 10 năm nay không rõ tung tích. Hai cậu con quý tử cũng đã lớn, kiếm được công ăn việc làm rồi. Hôm nọ, con sang chơi vả có ý ướm thử. Anh Bái ra chiều ưng thuận. Lại hỏi: Việc giải quyết với bà vợ bỏ nhà đi đâu thì thế nào? Anh ta xua tay: “Cái đó thì khỏi băn khoăn. Về tình mà nói, tôi đã tắt mặn mà từ lâu. Còn về lý, lại càng có đầy đủ cơ sở để ra tòa ly dị”.  Con nắm đằng chuôi rồi mới dám lên đây thưa với u…

Không lâu sau, Lan lấy chồng. Ngày cưới, chú rể vận bộ quần áo bộ đội bạc màu, cô dâu mặc quần lụa đen, áo phin trắng. Các bà, các mợ bảo “như thế nó mới vừa đôi”. Bà Hân vui lắm, bà nói cười luôn luôn. Lúc lên chụp ảnh cùng đôi uyên ương, bà cười hóm hỉnh, giục: “Anh chị mau mau cho tôi còn được bồng cháu kẻo lỡ…”…

Bốn mùa lúa qua đi. Cụ Hân đã có đứa bé cháu trai lên ba. Bé Tú kháu khỉnh, nghịch ngợm, hay gọi “bà, bà”. Những lúc bố mẹ đi vắng, nó tịnh không rời bà ngoại đến nửa bước. Bà chống gậy đứng lên thì cu Tú lon ton đi trước dắt tay bà. Tình cảm bà cháu quyến luyến, bịn rịn.

Quý và thương cháu hết đỗi. Ấy nhưng, có lắm khi cụ Hân lại trở nên đờ đẫn. Cụ đeo nỗi buồn riêng lắng sâu từ ngày cụ có đứa cháu. Không phải là nỗi buồn day dứt vì cu Tú… Thằng bé ngoan lắm. Có nó, cụ thêm vui, thêm khỏe, vợi đi bao ý niệm hoài cổ…

Lần đó, không ngờ là lần cuối cùng tôi gặp lại cụ Hân.

- Đã đành là chú Bái ăn ở không phải với mẹ vợ - bà cụ già nua. Đằng này, cái nhà cô Lan mà còn đối xử tệ bạc cả với mẹ đẻ nữa thì… Nói anh Phong bỏ quá cho, chẳng hay ở trên thành thị người ta ăn ở với nhau ra sao, con cái đối xử với bố mẹ thế nào, nhà quê nông dân chúng tôi không tỏ. Chứ như vợ chồng cái nhà chú Bái - cô Lan đối xử với mẹ mình, thật không bằng người đi ở đợ, quá quắt, tệ bạc, rối rắm… Mà đã lâu la gì cho cam… Bà Khoan hàng xóm xấp giọng.

Rồi bà Khoan bật lên tiếng khóc. Bà khóc tức tưởi. Rút vội cái khăn màu cháo lòng lau quếnh quáng những giọt nước mắt rớt xuống đôi gò má đen sạm, nghẹn ngào:

“Tôi chứng kiến nhiều lần chứ đâu chỉ vài ba lần mà bảo nói ngoa. Có lần sang chơi, thấy vợ chồng cô Lan với đứa nhỏ ngồi ở mâm trên cái chõng tre. Cụ Hân bê bát cơm ngồi bệt ngay dưới nền nhà đất cạnh cửa sổ. Lưng cụ còng hẳn xuống. Hai khuỷu chân ngũng ngoẵng chỉ toàn xương với da, đỡ cho cái đầu khỏi lắc lư. Cái quần đen cụ mặc vá chằng vá đụp, lê lết dưới nền nhà mốc meo, nom y như cái mảnh vải người ta thường treo ngoài đầu nhà, làm rẻ lau chân. Hai bàn tay cụ run run, cụ xúc thìa cơm đến là vất vả, để thức ăn rớt xuống đất”.

- Cho u thêm vài đụn tép?

- Cái gì? Bà chỉ có ăn cũng không xong!

Người con gái trừng mắt lên quát.

Cụ Hân vẫn giọng nhỏ nhẹ:

- Mắt u nhìn không rõ. Chẳng may… Thôi nào, cho u xin. Ăn cơm không nó nhạt nhẽo quá!

- Hết rồi!...

Bà Khoan bảo:

- Vợ chồng con cái đi ăn cỗ ở làng bên, dặn mẹ “có đói thì bà lấy cơm nguội ăn tạm với muối vừng”. Trời mùa đông rét căm căm. Cơm nấu từ chiều hôm trước, để đến trưa hôm sau đóng thành quầng rắn như đá. Người trẻ khỏe cũng phải nhai sái hàm; huống hồ là một bà cụ già đã gần 90 tuổi, ốm yếu? Cụ Hân đã nhịn đói những lúc như thế. Nhịn ăn nhưng nào có được yên thân.  Nhịn đói vẫn bị chửi rủa thậm tệ thì thật xót lòng. Người con rể đay nghiến: “Bà cứ tưởng chúng tôi sung sướng lắm à? Cu Tú lắm hôm còn phải nhịn sáng, bà có biết không?”… Cụ Hân ngậm đắng nuốt cay. Cụ Ngấm nỗi đau âm ỉ trong lòng, chẳng hề kêu ca phàn nàn dù chỉ nửa lời.

Rồi cụ Hân đổ bệnh nằm liệt giường. Cụ nằm trên cái chõng tre đến mấy tháng trời mới đỡ. Vừa dậy được khỏi giường thì anh con rể đã vội sai vợ “mang ngay cái bô ra sau nhà, mùi không thể chịu được”.

Đêm đó, cụ Hân dờ dẫm ra ngoài đi vệ sinh, bị vấp ngã lăn xuống vườn. Cụ chẳng kêu được nấy một tiếng.

Cụ Hân chết rồi!...

Truyện ngắn củaXuân phong