
Cùng dự và chủ trì Diễn đàn có Phó Thủ tướng Bùi Thanh Sơn, Phó Thủ tướng Nguyễn Chí Dũng; Bộ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ Nguyễn Mạnh Hùng, Bộ trưởng Bộ Nội vụ Đỗ Thanh Bình.
Diễn đàn có sự tham dự của đại diện lãnh đạo các ban, bộ, ngành, địa phương; đại diện cộng đồng doanh nghiệp công nghệ, các hội, hiệp hội nghề nghiệp; các viện nghiên cứu, trường đại học, chuyên gia, nhà khoa học; cùng sự hiện diện của cơ quan đại diện nước ngoài tại Việt Nam và các tổ chức quốc tế.
Phát biểu khai mạc Diễn đàn, thay mặt Tổng Bí thư Tô Lâm và lãnh đạo Đảng, Nhà nước, Thủ tướng Phạm Minh Chính nhiệt liệt chào mừng và chuyển lời thăm hỏi, chúc mừng tốt đẹp đến các đại biểu.
Thủ tướng đánh giá Diễn đàn có ý nghĩa quan trọng chào mừng Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIV, Đại hội Thi đua yêu nước lần thứ XI; đồng thời định hình những phương hướng mới, những nhiệm vụ mới, những mục tiêu mới để phát triển kinh tế số, xã hội số - đây là hai phạm trù, hai lĩnh vực "tuy hai mà một, tuy một mà hai", lĩnh vực này phát triển được thì sẽ thúc đẩy lĩnh vực kia, lĩnh vực này không phát triển được thì sẽ kìm hãm lĩnh vực kia và ngược lại.
Thủ tướng nêu rõ, chúng ta đã xác định phát triển kinh tế số nhằm đổi mới mô hình tăng trưởng, tái cấu trúc nền kinh tế, nâng cao năng suất, năng lực cạnh tranh, xây dựng xã hội số bao trùm, nhân văn, nâng cao chất lượng sống, bình đẳng tiếp cận dịch vụ, thu hẹp khoảng cách phát triển, phát huy bản sắc văn hóa trên môi trường số.
Trên tinh thần "kinh tế số là động lực, xã hội số là nền tảng, con người làm trung tâm", thời gian qua, Đảng, Nhà nước, Chính phủ luôn quan tâm và đề ra nhiều chủ trương, đường lối, cơ chế, chính sách thúc đẩy phát triển kinh tế số và xã hội số. Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIII xác định rất rõ là phát triển kinh tế số, nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh của nền kinh tế số, từng bước phát triền kinh tế số, xã hội số.
Tháng 12/2024, Nghị quyết 57 của Bộ Chính trị đã xác định đây là một đột phá quan trọng hàng đầu, là động lực chính để phát triển nhanh lực lượng sản xuất hiện đại, hoàn thiện quan hệ sản xuất, đổi mới phương thức quản trị quốc gia, phát triển kinh tế - xã hội, ngăn chặn nguy cơ tụt hậu, đưa đất nước phát triển bứt phá, giàu mạnh trong kỷ nguyên mới. Như vậy, sau một nhiệm kỳ, nhận thức của chúng ta về vai trò, vị trí của kinh tế số, xã hội số đã có thay đổi, Thủ tướng nhận định.
Theo Thủ tướng, mục tiêu của diễn đàn không dừng lại ở việc tổng kết, đánh giá mà còn thảo luận, phân tích và đề xuất các giải pháp đột phá phát triển kinh tế số, xã hội số trong những năm tới.

Thủ tướng đề nghị các đại biểu đánh giá thẳng thắn, khách quan, minh chứng bằng số liệu cụ thể về thực trạng phát triển kinh tế số, xã hội số của Việt Nam thời gian vừa qua, những kết quả nổi bật là gì, chúng ta đang đứng ở đâu trong chuỗi giá trị công nghệ toàn cầu.
Cùng với đó, chia sẻ những kinh nghiệm hay, bài học quý, cách làm sáng tạo trong phát triển kinh tế số, xã hội số, đặc biệt là các bài học từ các tập đoàn công nghệ lớn, các địa phương đi đầu để chúng ta nhân rộng các mô hình thành công.
Đồng thời, nhận diện rõ những tồn tại, hạn chế, yếu kém, vướng mắc, rào cản, điểm nghẽn, nhất là về thể chế và cơ chế chính sách để triển khai, phát triển các dịch vụ số xuyên biên giới, thuế, sở hữu trí tuệ, đảm bảo an ninh mạng….
Đặc biệt, xác định rõ các nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm, đột phá để thúc đẩy phát triển mạnh mẽ kinh tế số, xã hội số trong thời gian tới; để kinh tế số thực sự thấm sâu vào mọi người, mọi nhà, mọi ngõ ngách của nền kinh tế, trong nông nghiệp, công nghiệp, xây dựng, dịch vụ, môi trường, phòng chống thiên tai, dịch bệnh…
"Làm thế nào để khơi thông những điểm nghẽn còn ách tắc trong kết nối, chia sẻ dữ liệu? Cần những cơ chế đặc thù gì Việt Nam trở thành cái nôi của khởi nghiệp sáng tạo và phát triển công nghệ mới? Làm gì để xây dựng một xã hội số văn minh, bao trùm, không để ai bị bỏ lại phía sau? Huy động và sử dụng hiệu quả nguồn lực xã hội như thế nào cho hiệu quả, như đầu tư công, đầu tư tư nhân, đầu tư nước ngoài, hợp tác công tư?", Thủ tướng đặt vấn đề.
Với phương châm "Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ", Thủ tướng đề nghị các đại biểu góp ý để xây dựng một chương trình về kinh tế số, xã hội số phù hợp với điều kiện, đặc thù Việt Nam trong dòng chảy chung của thế giới, để Việt Nam tiến cùng, bắt kịp và vượt lên về phát triển kinh tế số, xã hội số trong kỷ nguyên mới. Theo Thủ tướng, đây là việc không phải đơn giản nhưng nếu có cách đi, cách làm tốt thì sẽ rút ngắn được thời gian, tiết kiệm được công sức.

Trình bày báo cáo dẫn đề về phát triển kinh tế số và xã hội số Việt Nam, Bộ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ Nguyễn Mạnh Hùng cho biết:
Việt Nam đang bước vào giai đoạn tăng tốc chiến lược để thực hiện khát vọng phát triển nhanh và bền vững, đưa đất nước ta trở thành quốc gia thu nhập cao trong những thập niên tới. Trong hành trình đó, kinh tế số và xã hội số không còn là lựa chọn mà là con đường tất yếu, là động lực cốt lõi của tăng trưởng và đổi mới mô hình phát triển.
Diễn đàn lần thứ ba sẽ bàn một vấn đề lớn: Làm thế nào để kinh tế số và xã hội số thực sự trở thành không gian phát triển mới của Việt Nam, chứ không chỉ là sự số hóa của mô hình cũ, để góp phần mang tính quyết định cho tăng trưởng hai con số?
Phát triển kinh tế số và xã hội số của Việt Nam trong giai đoạn tới sẽ chuyển từ số hóa cái cũ sang kiến tạo không gian phát triển mới, nơi dữ liệu, AI, nền tảng số, doanh nghiệp số và công dân số cùng trở thành động lực tăng trưởng.
Kinh tế số của Việt Nam hiện nay vẫn chủ yếu là số hóa các hoạt động cũ, chưa chuyển mạnh sang tạo mô hình tăng trưởng mới. Tỉ trọng kinh tế số trong GDP tăng nhanh nhưng giá trị gia tăng nội địa còn thấp, phụ thuộc nhiều vào các nền tảng xuyên biên giới. Nhiều doanh nghiệp nhỏ và vừa chưa thực sự tham gia vào chuỗi giá trị số.
Vì vậy, nhiệm vụ của giai đoạn tới không chỉ là làm nhiều hơn, mà là làm khác đi, làm sâu hơn, tạo ra giá trị gia tăng nhiều hơn và làm bền vững hơn. Bởi vậy, rất cần những đổi mới mang tính đột phá.
Thứ nhất, kiến tạo một cấu trúc nền kinh tế số quốc gia thay vì số hóa rời rạc từng lĩnh vực. Chuyển từ tiếp cận mỗi ngành một đề án chuyển đổi số sang thiết kế lại cấu trúc nền kinh tế dựa trên các lớp hạ tầng số dùng chung như viễn thông, internet, điện toán, dữ liệu số, AI, nền tảng số và dịch vụ số. Nhà nước phải đóng vai kiến trúc sư trưởng của nền kinh tế số và xã hội số quốc gia, định hình cấu trúc để thị trường vận hành.
Bản chất sâu xa của kinh tế số là tái cấu trúc toàn bộ nền kinh tế, từ cách sản xuất, phân phối, tiêu dùng đến cách tổ chức thị trường, quản trị doanh nghiệp và phân bổ nguồn lực xã hội. Kinh tế số dựa trên tư liệu sản xuất mới là dữ liệu, dựa trên phương tiện máy móc sản xuất mới là hạ tầng số, cloud, IoT, AI và nền tảng số; dựa trên khung vận hành mới là các luật lệ mới về khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số, dữ liệu số, công nghệ số, AI và an toàn, an ninh mạng; dựa trên các chủ thể số là doanh nghiệp số và chuỗi giá trị số. Kinh tế số không phải là thêm một ngành, mà là số hóa, tái cấu trúc mọi ngành, mọi lĩnh vực, dựa trên điều kiện đủ là công dân số và niềm tin số. Đây là nền tảng của xã hội số và là điều kiện để kinh tế số vận hành bền vững. Không có niềm tin số thì sẽ không có giao dịch số, không có kinh tế số.

Thứ hai, coi dữ liệu, AI, năng lực tính toán là năng lực sản xuất nền tảng của nền kinh tế số, không chỉ là công cụ hỗ trợ, tương đương như điện, nước, viễn thông. Nhà nước, doanh nghiệp, người dân có thể sử dụng dưới dạng dịch vụ. Ở đây, tôi muốn nhấn mạnh vai trò mới của các nhà mạng viễn thông thế hệ mới đối với sự phát triển kinh tế số và xã hội số. Nhà mạng không chỉ cung cấp kết nối mà cung cấp các năng lực số cốt lõi để doanh nghiệp xây dựng sản phẩm dịch vụ và vận hành nền kinh tế. Giá trị của nhà mạng không chỉ nằm ở số thuê bao mà nằm ở số lượng dịch vụ mà các doanh nghiệp khác xây dựng trên mạng. Nhà mạng phải trở thành xương sống của không gian số quốc gia, không chỉ là mạng viễn thông, đó còn là trung tâm dữ liệu, điện toán đám mây, điện toán biên, nền tảng, an toàn an ninh mạng.
Thứ ba, chuyển từ chính phủ điện tử là số hóa thủ tục sang nhà nước điều hành dựa trên dữ liệu và mô hình dự báo. Nhà nước là một hệ thống phức hợp, vượt quá khả năng xử lý của con người, nhưng một khi đã lên môi trường số thì AI có khả năng xử lý, dự báo. Các chính sách được thiết kế, mô phỏng, thử nghiệm, đánh giá tác động bằng dữ liệu sẽ nhanh hơn và chính xác hơn. Quản lý theo rủi ro, theo tác động xã hội, giám sát diện rộng rồi thanh kiểm tra có trọng tâm.
Thứ tư, phát triển thị trường số quốc gia lấy doanh nghiệp làm trung tâm. Chuyển từ hỗ trợ doanh nghiệp chuyển đổi số sang tạo thị trường số, tạo cầu cho doanh nghiệp Việt Nam, tạo niềm tin cho doanh nghiệp số Việt Nam. Doanh nghiệp Việt Nam lớn lên trong thị trường nội địa rồi từ đó đi ra toàn cầu, hình thành các tập đoàn công nghệ Việt Nam có năng lực nền tảng số.
Thứ năm, xây dựng xã hội số lấy con người làm trung tâm và niềm tin số làm nền tảng. Chuyển đổi số cuối cùng là chuyển đổi con người. Cần phổ cập kỹ năng số, tư duy số, đạo đức số cho toàn xã hội, xây dựng văn hóa số Việt Nam nhân văn, an toàn, sáng tạo và có trách nhiệm. Xã hội số không chỉ là phổ cập công nghệ mà là trao quyền số cho người dân, gắn với niềm tin, đạo đức và văn hóa số. Nếu kinh tế số trả lời câu hỏi "làm ra của cải như thế nào?" thì xã hội số trả lời câu hỏi "phát triển vì ai?".
Xã hội số không phải là xã hội mà mọi thứ đều được đưa lên môi trường mạng, mà là xã hội trong đó mỗi người dân được trao quyền nhiều hơn nhờ có công nghệ số: Quyền tiếp cận thông tin, quyền tiếp cận dịch vụ công, quyền học tập suốt đời, quyền tham gia quản lý xã hội. Trong xã hội số thì công dân số không chỉ là người thụ hưởng mà là chủ thể tham gia kiến tạo chính sách. Chính quyền không chỉ là cơ quan quản lý mà là nhà cung cấp dịch vụ công dựa trên dữ liệu. Cộng đồng số trở thành một không gian xã hội mới song song và gắn kết với không gian vật lý.
Kinh tế số và xã hội số không chỉ là câu chuyện của công nghệ mà là câu chuyện của tái cấu trúc phát triển, tái thiết niềm tin và tái định vị vai trò nhà nước, doanh nghiệp và người dân trong kỷ nguyên số. Với dữ liệu làm nền tảng, nền tảng số làm động lực, thể chế làm dẫn dắt và con người làm trung tâm, chúng ta có đủ điều kiện để chuyển đổi thành công mô hình tăng trưởng, nâng cao năng suất, chất lượng cuộc sống, xã hội.
Bộ Khoa học và Công nghệ cam kết tiếp tục đóng vai trò kiến trúc sư về khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số, chính phủ số, kinh tế số, xã hội số; đồng hành cùng các bộ, ngành, địa phương và cộng đồng doanh nghiệp để hiện thực hóa khát vọng phát triển nhanh, bền vững, bao trùm trong kỷ nguyên số.

Trình bày bài tham luận với chủ đề "Từ dữ liệu quốc gia về dân cư tới phát triển kinh tế dữ liệu", Thiếu tướng Nguyễn Ngọc Cương, Giám đốc Trung tâm Dữ liệu Quốc gia phân tích: Nhân loại đã trải qua nhiều hình thái kinh tế, mỗi hình thái đều gắn liền với những tư liệu sản xuất đặc trưng. Ở thế kỷ XIX là thời đại của than đá và thép, thế kỷ XX là thời đại của dầu mỏ và điện năng, thế kỷ XXI hiện nay là thời đại của dữ liệu và trí tuệ nhân tạo. Tuy nhiên, khác với dầu mỏ, than đá, sắt thép, dữ liệu không bị cạn kiệt mà có thể được làm giàu thêm, vừa là tư liệu sản xuất chính nhưng cũng đồng thời tạo ra thặng dư dữ liệu.
Nếu hình thái kinh tế số gắn với công nghệ thông tin, máy tính, vi mạch, điện tử, tự động hóa, Internet, thì hình thái kinh tế dữ liệu sẽ gắn liền với dữ liệu, trí tuệ nhân tạo. Nói cách khác, cuộc cách mạng dữ liệu đã và đang mang lại một hình thái mới - kinh tế dữ liệu, trong đó dữ liệu trở thành nguồn lực chiến lược để thúc đẩy hoạt động kinh tế xã hội, đổi mới sáng tạo và phát triển bền vững. Trong kinh tế dữ liệu, dữ liệu là nguồn lực đầu vào, là tư liệu sản xuất chính để tạo ra giá trị mới. Dữ liệu là tài sản kinh tế đặc biệt, nó được trao đổi, định giá và thương mại hóa. Dữ liệu là nền tảng cho trí tuệ, dự báo, ra quyết định và có thể thay đổi hành vi và quản trị xã hội. Tại sao phải xác định kinh tế dữ liệu là đột phá chiến lược?
Thứ nhất, dữ liệu là động lực tăng trưởng và năng lực cạnh tranh quốc gia trong thời đại mới.
Thứ hai, dữ liệu là tư liệu sản xuất cho kỷ nguyên mới, đặc biệt là các công nghệ lõi như AI; không có dữ liệu thì không có AI.
Thứ ba, dữ liệu có yếu tố địa chính trị, liên quan trực tiếp đến chủ quyền, an ninh và vị trí trong chuỗi giá trị toàn cầu. Hiện nay khái niệm chủ quyền an ninh mạng cũng đã đan xen với chủ quyền về an ninh dữ liệu.
Thứ tư, dữ liệu có tiềm năng không thể lường trước được, có thể giúp tăng tốc hoặc bỏ qua các giai đoạn phát triển truyền thống.
Thứ năm, đây là cơ hội tốt nhất của nước ta để nâng cao vị thế quốc gia.
Nhận thức rõ được điều này có nghĩa là chúng ta đang bước vào một cuộc cách mạng nhận thức mới, đó là tìm ra một tư liệu sản xuất mới, phương thức sản xuất mới kết hợp với lực lượng sản xuất mới tác động đến quan hệ sản xuất để bước vào kỷ nguyên mới. Trong bối cảnh đó, với tầm nhìn lịch sử, Đảng và Nhà nước đã thúc đẩy cuộc cách mạng dữ liệu triển khai trên một bối cảnh rộng lớn, từ xây dựng hạ tầng dữ liệu tin cậy tới tạo lập dữ liệu tin cậy quốc gia, từ tự chủ làm chủ công nghệ lõi tới nâng cao nhận thức toàn dân và xây dựng nguồn lực chuyên gia có trình độ cao. Điều đó có nghĩa là chúng ta đang mong muốn và cố gắng chuyển hóa rất nhanh một chu trình phát triển mà thế giới đã vượt qua để bắt kịp và tiến tới làm chủ một hình thái kinh tế mới mà thế giới đang hướng tới.
Cơ sở dữ liệu tổng hợp quốc gia đang được tạo lập và phát huy vai trò to lớn, trong đó dữ liệu quốc gia về dân cư của Bộ Công an đã xây dựng không đơn thuần chỉ là công cụ quản lý hành chính mà còn đóng vai trò rất quan trọng để nâng cao sức cạnh tranh quốc gia trong kỷ nguyên số, thể hiện ở ba vai trò chính:
Thứ nhất, nó tạo một nền tảng cho phổ cập dịch vụ số trên phạm vi toàn quốc khi mỗi công dân xác lập một danh tính số duy nhất, được định danh và xác thực tin cậy. Nhà nước, Chính phủ có điều kiện để cung cấp các dịch vụ trong môi trường số một cách thống nhất, liên thông và an toàn.
Trên cơ sở đó, phương thức phục vụ được từng bước tái cấu trúc theo hướng cắt giảm các yêu cầu thành phần hồ sơ người dân phải kê khai, xuất trình nhiều lần, tăng cường khai thác tái sử dụng dữ liệu sẵn có từ các bộ ngành. Và việc phổ cập dịch vụ số trên nền tảng dữ liệu dân cư cũng sẽ góp phần xóa bỏ rào cản về không gian địa lý và tạo điều kiện để người dân vùng sâu, vùng xa tiếp cận dịch vụ công tới mức độ thuận lợi nhất, tương đương với khu vực đô thị, qua đó góp phần thu hẹp khoảng cách phát triển giữa các vùng miền.
Thứ hai, cơ sở dữ liệu dân cư đã tạo nền tảng quan trọng cho sự phát triển của kinh tế số. Dữ liệu dân cư chính xác, được chuẩn hóa và cập nhật thường xuyên là điều kiện để các mô hình kinh doanh trên môi trường số vận hành an toàn, hiệu quả và có khả năng mở rộng. Các lĩnh vực như thương mại điện tử, tài chính số, y tế số, giáo dục số cần dựa trên hệ thống định danh và xác thực điện tử để xác định người dùng, góp phần phòng ngừa gian lận, củng cố niềm tin trong giao dịch. Hơn nữa, khi dữ liệu được khai thác, phân tích bằng công nghệ AI và Big Data, sẽ tạo ra giá trị kinh tế gấp nhiều lần giá trị ban đầu. Đây chính là "dầu mỏ" của thế kỷ XXI, là nguồn tài nguyên vô tận cho đổi mới sáng tạo, ra đời hàng nghìn sản phẩm dịch vụ mới, tạo việc làm và đóng góp vào tăng trưởng GDP.
Thứ ba, cơ sở dữ liệu dân cư đã góp phần phát triển và xây dựng xã hội số văn minh, tiến bộ và bền vững. Dữ liệu chính xác sẽ giúp Nhà nước quản trị dựa trên bằng chứng, từ đó hoạch định các chính sách khoa học, phân bổ nguồn lực hợp lý, phục vụ người dân tốt hơn. Đồng thời, dữ liệu còn là công cụ để trao quyền giúp công dân chủ động kiểm soát thông tin cá nhân, tham gia giám sát công quyền để góp phần xây dựng xã hội dân chủ minh bạch. Khi dữ liệu sống và chảy thông suốt thì xã hội là một hệ sinh thái hoàn chỉnh, nơi mọi hoạt động kinh tế, xã hội, chính trị đều được số hóa, tối ưu và kết nối.
Trong thời gian qua, Đề án 06 đánh dấu bước chuyển mình lịch sử của Việt Nam trong cuộc chuyển đổi số. Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư đã có 107 triệu dữ liệu công dân, kết nối với 15 bộ ngành và 34 địa phương, tiếp nhận 2,1 tỷ lượt yêu cầu xác thực. Ứng dụng VNeID có 67 triệu tài khoản định danh điện tử, tích hợp 50 tiện ích. Cổng dịch vụ công quốc gia tích hợp 4.700 thủ tục, tiếp nhận 11,5 triệu hồ sơ trực tuyến năm 2025 và tiết kiệm hơn 4.000 tỷ đồng chi phí xã hội. VNeID chi trả 33.000 tỷ tiền an sinh xã hội cho 675.000 người.
Tuy nhiên, nếu nhìn vào thực chất, chúng ta mới ở giai đoạn xây nền móng bước đầu của nền kinh tế dữ liệu. Mới chỉ có cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư phát huy vai trò cốt lõi như vậy. Nếu chúng ta hình thành và khai thác được tiềm năng của cơ sở dữ liệu tổng hợp quốc gia với 4 trụ cột dữ liệu chính là con người, vật phẩm, địa điểm và hoạt động thì sẽ phát huy vai trò hơn nữa. Trước thực trạng trên, để tận dụng mục tiêu tăng trưởng GDP hai con số giai đoạn 2026-2030, chúng ta cần phải giải quyết ba điểm nghẽn quan trọng.
Điểm nghẽn thứ nhất là nghịch lý giữa có dữ liệu nhưng thiếu dữ liệu sống động. Chúng ta mới có 12 cơ sở dữ liệu trọng điểm theo Quyết định 02/QĐ-TTg ngày 12/1/2021, có 8 cơ sở dữ liệu chưa có nền tảng cơ sở dữ liệu chung hoặc mức độ hoàn thiện rất thấp. Với 105 cơ sở dữ liệu được giao tại Quyết định 71/QĐ-TTg của Chính phủ, mặc dù các bộ ngành đã cam kết sẽ hoàn thành trong năm 2025 tại hai phiên họp liên ngành, nhưng thực tế khảo sát cho thấy có 38/105 cơ sở dữ liệu Bộ Công an đánh giá có nguy cơ cao không hoàn thành trong năm 2025.
Điểm nghẽn thứ hai là mâu thuẫn giữa có nền tảng nhưng thiếu hệ sinh thái. VNeID có 67 triệu tài khoản nhưng chưa thực sự trở thành siêu nền tảng, người dân vẫn có thể sử dụng nhiều ứng dụng khác nhau cho từng dịch vụ và chưa có trải nghiệm liền mạch. Chưa có cơ chế đột phá về hoạt động sáng tạo khai thác cho dữ liệu từ Trung tâm Dữ liệu Quốc gia để hỗ trợ thúc đẩy doanh nghiệp có thể khai thác dữ liệu một cách hợp pháp an toàn để phát triển sản phẩm đổi mới, nhất là hoạt động khai thác dữ liệu công tư kết hợp. Chương trình vườn ươm tạo dữ liệu quốc gia và một nền tảng công nghiệp phát triển kinh tế dữ liệu khi đã có hạ tầng vẫn còn sơ khai.
Điểm nghẽn thứ ba là chúng ta chưa xác định được mô hình kinh tế dữ liệu của quốc gia. Thế giới hiện nay có ba mô hình chính: Thị trường tự do của Mỹ (doanh nghiệp và hệ sinh thái dữ liệu giữ vai trò chủ đạo, quy mô toàn cầu, đổi mới và thương mại hóa AI nhanh chóng); mô hình Nhà nước điều phối của Trung Quốc; mô hình lợi ích của người dân của EU. Trong khi đó, chúng ta mới ở giai đoạn đầu của sự phát triển và mô hình kinh tế dữ liệu cho riêng mình đang ở bước đầu.
Để vượt qua ba điểm nghẽn, từ đó tạo bước nhảy vọt, Bộ Công an đề xuất 5 đột phá chiến lược để gắn chặt chẽ với mục tiêu phát triển kinh tế số và xã hội số.
Đột phá thứ nhất là xây dựng Nghị quyết của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế dữ liệu. Nước ta có thế mạnh về lực lượng lao động trẻ, tiếp cận tốc độ, tiếp cận số rất nhanh, nguồn tài nguyên dữ liệu đang được tạo lập có quy mô quốc gia, hạ tầng dữ liệu tin cậy quốc gia hiện đại đang được triển khai có hiệu quả. Đảng và Nhà nước đã ưu tiên các chính sách và chiến lược dữ liệu quốc gia. Đây là điều kiện tạo nên cơ hội phát triển đột phá để tăng tốc, bỏ qua giai đoạn phát triển truyền thống. Quan điểm lựa chọn chiến lược kinh tế dữ liệu nên được cân bằng giữa Nhà nước, thị trường và quyền công dân, tăng thu hút FDI và hình thành các doanh nghiệp nội địa thế hệ mới dựa trên dữ liệu từ đầu, xác định vị thế bản sắc giá trị riêng giữa các hệ sinh thái dữ liệu của quốc gia trên thế giới.
Đột phá thứ hai là xây dựng hệ sinh thái dữ liệu mở để phục vụ doanh nghiệp và đổi mới sáng tạo. Bộ Công an đang tham mưu xây dựng nghị định quy định về cơ chế đột phá phát triển cho hoạt động sáng tạo khai thác dữ liệu từ vườn ươm sáng tạo, khai thác dữ liệu thuộc Trung tâm Dữ liệu Quốc gia. Định hướng phát triển trung tâm là vườn ươm cung cấp hỗ trợ toàn diện cho các doanh nghiệp từ cơ sở vật chất, kết nối vốn đầu tư, tư vấn chuyên môn để tạo điều kiện khởi nghiệp và thương mại hóa sản phẩm. Mô hình này đã thành công ở Singapore, Estonia và đang kỳ vọng sẽ giúp Việt Nam hình thành các công nghiệp dữ liệu trị giá hàng tỷ USD để đóng góp trực tiếp vào kinh tế số, chiếm 30% GDP vào năm 2030.
Đột phá thứ ba là nâng cấp VNeID thành siêu nền tảng số quốc gia, trung tâm của hệ sinh thái số. Đây là một giải pháp để VNeID không chỉ là ứng dụng định danh mà trở thành điểm truy cập duy nhất, kết nối liền mạch giữa Nhà nước, doanh nghiệp và người dân.
Đột phá thứ tư là triển khai chiến lược phát triển công dân số quốc gia với cơ chế khuyến khích đột phá. Đây là giải quyết điểm nghẽn về nguồn lực nhân lực cho xã hội số. Bộ Công an đang chủ trì xây dựng Nghị quyết phát triển công dân số, văn bản pháp lý đầu tiên của Việt Nam quy định toàn diện về công dân số.
Đột phá thứ năm là triển khai có hiệu quả khung kiến trúc dữ liệu quốc gia để các bộ ngành căn cứ vào đó xây dựng khung kiến trúc cho bộ, ngành, địa phương mình, và xây dựng nghị định tổ chức hoạt động của Trung tâm Dữ liệu Quốc gia như Thủ tướng đã chỉ đạo.
Năm đột phá chiến lược Bộ Công an đề xuất không phải là 5 mảnh ghép rời rạc mà sẽ là hệ thống tích hợp tác động đến các trụ cột phát triển kinh tế dữ liệu. Khi có hệ sinh thái dữ liệu quốc gia lấy con người làm trung tâm thì từng bước đẩy nhanh chuyển đổi số. Và khi có lực lượng sản xuất trình độ cao, xã hội số sẽ hình thành tự nhiên; khi có dữ liệu tin cậy, tất cả sẽ phát triển bền vững. Bộ Công an tin tưởng rằng kinh tế dữ liệu là con đường để Việt Nam không chỉ đuổi kịp mà vượt lên, đạt mục tiêu mà Đảng, Nhà nước đã đề ra. Bộ Công an cam kết đồng hành cùng Chính phủ, doanh nghiệp và toàn thể người dân để thực hiện từ khóa: Đưa Việt Nam phát triển hùng cường và phồn vinh.

Tham luận về phát triển dữ liệu mở phục vụ phát triển kinh tế số và xã hội số, những kinh nghiệm từ thành phố Đà Nẵng, ông Hồ Quang Bửu, Phó Chủ tịch UBND thành phố Đà Nẵng cho biết: Trong tiến trình chuyển đổi số, thành phố Đà Nẵng xác định dữ liệu là hạ tầng quan trọng, là nguồn tài nguyên mới cần thực hiện khai thác hiệu quả để càng tạo ra nhiều giá trị gia tăng cho nền kinh tế. Thành phố đã sớm ban hành và triển khai Đề án Chuyển đổi số, Đề án Xây dựng thành phố thông minh, trong đó lấy khơi thông dữ liệu công làm nhiệm vụ trung tâm. Đà Nẵng là một trong những địa phương đầu tiên xây dựng và vận hành Cổng dữ liệu mở Thành phố, được xác định là nền tảng hạ tầng dữ liệu dùng chung phục vụ người dân, doanh nghiệp và xã hội.
Ông Hồ Quang Bửu chia sẻ 4 nhóm giải pháp chính:
Thứ nhất là thể chế và cách tiếp cận. Đà Nẵng đã sớm ban hành danh mục dữ liệu mở vào năm 2023 và quy chế chia sẻ dữ liệu. Đồng thời đưa chỉ tiêu cung cấp dữ liệu mở vào kế hoạch chuyển đổi số hằng năm, yêu cầu 100% các cơ quan nhà nước tham gia cung cấp dữ liệu. Đặc biệt, Đà Nẵng áp dụng cách tiếp cận "mở theo nhu cầu". Theo đó, chuyển từ "Thành phố có gì công bố cái đó" sang "người dân, doanh nghiệp cần gì Thành phố công bố cái đó" và yêu cầu các cơ quan địa phương định kỳ lấy ý kiến các doanh nghiệp, trường học về nhu cầu, yêu cầu dữ liệu mở để triển khai cung cấp.
Thứ hai là tiên phong về nền tảng kỹ thuật. Thành phố Đà Nẵng là địa phương đầu tiên nghiên cứu đưa vào sử dụng thí điểm Cổng dịch vụ dữ liệu mở. Đến năm 2023, Cổng đã chính thức yêu cầu sử dụng thống nhất trên toàn Thành phố. Cổng dữ liệu được thiết kế một đầu mối, một nền tảng, hỗ trợ nhiều dịch vụ và máy đọc được, và nhiều phương thức khai thác như tra cứu trực tiếp, API, ứng dụng số, tạo thuận lợi tối đa cho việc sử dụng dữ liệu. Cổng dữ liệu mở được xây dựng không chỉ là nền tảng dùng chung để cơ quan nhà nước chia sẻ dữ liệu nhằm phát triển hạ tầng dữ liệu bền vững trong chính quyền số, mà còn là đầu mối cung cấp dữ liệu mở miễn phí cho người dân, doanh nghiệp và cộng đồng khai thác, sử dụng và sáng tạo.
Thứ ba là thúc đẩy nền kinh tế số và đổi mới sáng tạo. Nguồn tài nguyên miễn phí cho đổi mới, Cổng dữ liệu mở Đà Nẵng đã công khai hơn 1.500 bộ dữ liệu, thu hút hơn 1.800 tài khoản đăng ký, sử dụng và hơn 5,8 triệu lượt truy cập. Đây là nguồn tài nguyên dồi dào miễn phí cho doanh nghiệp, startup và các cá nhân để phát triển ứng dụng các dịch vụ mới như thúc đẩy phát triển du lịch thông minh, quản lý giao thông và đô thị hiệu quả, thu hút đầu tư minh bạch…
Thứ tư là ứng dụng dữ liệu mở trong cung cấp dịch vụ tiện ích số cho người dân và doanh nghiệp. Cổng dữ liệu mở đã công khai nhiều thông tin quan trọng như quy hoạch đô thị, đất đai, chất lượng môi trường giúp người dân, doanh nghiệp dễ dàng tiếp cận, tra cứu, giám sát. Qua đó góp phần nâng cao tính minh bạch và củng cố niềm tin của người dân, doanh nghiệp và nhà đầu tư đối với chính quyền Thành phố. Trên cơ sở đó, dữ liệu mở còn khai thác hiệu quả và phát triển các ứng dụng giải quyết những vấn đề xã hội thiết thực tiêu biểu như: Phòng chống thiên tai, bản đồ dịch tễ, dữ liệu bệnh viện, nhà thuốc…
Từ những kinh nghiệm và kết quả triển khai đến nay, trong giai đoạn 2026-2030, Đà Nẵng tiếp tục định hướng phát triển Cổng dữ liệu mở không chỉ là giải pháp công nghệ mà là phương thức quản trị mới và là chìa khóa quan trọng để mở khóa tiềm năng tăng trưởng GDP.
Phó Chủ tịch UBND thành phố Đà Nẵng đề xuất 3 nội dung:
Thứ nhất, tiếp tục hoàn thiện khung pháp lý quốc gia. Đề xuất Chính phủ, Bộ Khoa học và Công nghệ, Bộ Công an xem xét ban hành Chiến lược quốc gia về dữ liệu mở và các hướng dẫn kỹ thuật chi tiết để các địa phương có căn cứ pháp lý và kỹ thuật rõ ràng trong việc công bố và tái sử dụng dữ liệu mở. Ban hành Chỉ số sẵn sàng dữ liệu mở quốc gia. Chỉ số này sẽ trở thành mục tiêu KPI bắt buộc cho xếp hạng chuyển đổi số quốc gia, tạo động lực cho các bộ, ngành, địa phương triển khai hiệu quả. Hướng dẫn phân loại và chi tiết công bố rõ ràng danh mục dữ liệu mở, dữ liệu được phép mở, dữ liệu được mở có điều kiện và dữ liệu tuyệt đối không được mở. Điều này giúp cho cơ quan nhà nước sẽ an tâm hơn trong việc thực hiện liên quan đến bảo đảm an ninh an toàn thông tin của Nhà nước và nhân dân.
Thứ hai, thúc đẩy áp dụng công nghệ mới. Đề xuất Bộ Khoa học và Công nghệ ban hành các hướng dẫn kỹ thuật về cổng dữ liệu mở, định dạng công bố, mức độ chi tiết, tần suất cập nhật để bảo đảm dữ liệu mở tuân thủ nguyên tắc "đúng, đủ, sạch, sống", thống nhất dùng chung. Khuyến khích các cơ quan công bố dữ liệu dưới định dạng máy đọc được để thúc đẩy việc sử dụng các công nghệ mới như trí tuệ nhân tạo (AI) trong dữ liệu lớn (Big Data) nhằm khai thác triệt để giá trị gia tăng từ dữ liệu. Xây dựng chương trình đào tạo tập trung cho cán bộ về kỹ năng quản lý dữ liệu và công bố dữ liệu mở tiêu chuẩn.
Thứ ba, đề nghị Bộ Công an, Bộ Khoa học và Công nghệ, Bộ Tài chính hướng dẫn các địa phương xây dựng và phát triển sàn giao dịch dữ liệu. Việc phát triển sàn giao dịch dữ liệu là bước tiến logic và cần thiết sau khi xây dựng được cổng dữ liệu mở. Nếu dữ liệu mở là tài nguyên miễn phí thì sàn giao dịch dữ liệu là nơi dữ liệu được thương mại hóa, tạo ra nguồn thu mới và thúc đẩy kinh tế số tại địa phương.
Thành phố Đà Nẵng cam kết tiếp tục đẩy mạnh chia sẻ dữ liệu, tạo ra một môi trường hệ sinh thái dữ liệu mở bền vững, góp phần cùng cả nước thực hiện thành công mục tiêu phát triển kinh tế số, xã hội số và đạt mục tiêu tăng trưởng GDP hai con số trong thời gian tới.

Tham luận về phát triển kinh tế không gian tầm thấp, ông Arnaud Ginolin, Giám đốc điều hành Boston Consulting Group (BCG), nhận định rằng, nền kinh tế tầm thấp đang nổi lên như một hướng phát triển mới giàu tiềm năng. Về khái niệm, kinh tế tầm thấp là hệ sinh thái khởi nghiệp, công nghiệp và công nghệ hoạt động trong không gian dưới 1.000 m. Hệ sinh thái này bao gồm nhiều loại thiết bị bay khác nhau, hình thành một tầng không gian kinh tế mới ngay phía trên mặt đất.
Cấu trúc của nền kinh tế tầm thấp hiện xoay quanh hai phân khúc chính.
Thứ nhất là máy bay không người lái, bao gồm cả các nền tảng cất cánh thẳng đứng hoặc cất - hạ cánh đường băng ngắn.
Thứ hai là eVTOL - máy bay điện cất cánh và hạ cánh thẳng đứng, có khả năng chở từ 9-10 hành khách hoặc vận chuyển hàng hóa với tải trọng lên tới khoảng 200 kg. Đây chính là trụ cột cốt lõi của nền kinh tế tầm thấp hiện nay.
Sự quan tâm ngày càng tăng đối với lĩnh vực này xuất phát từ việc nhiều trường hợp sử dụng đã đạt đến độ chín về công nghệ và hiệu quả kinh tế. BCG xác định 6 nhóm ứng dụng chính, được sắp xếp theo mức độ trưởng thành.
Đứng đầu là lĩnh vực quân sự và an ninh, đặc biệt là các hoạt động ISR (tình báo, giám sát và trinh sát). Việc sử dụng thiết bị bay không người lái giúp tăng độ chính xác trong khi giảm đáng kể chi phí vận hành so với các đội bay truyền thống.
Thứ hai là nông nghiệp, nơi drone được ứng dụng trong gieo hạt, bón phân chính xác và giám sát cây trồng. Thực tế cho thấy năng suất đã được cải thiện rõ rệt tại những khu vực áp dụng công nghệ này.
Thứ ba là logistics, tập trung vào giao hàng chặng ngắn và ngày càng mở rộng sang vận chuyển tải trọng nặng, đặc biệt trong các khu vực đô thị hoặc khó tiếp cận.
Thứ tư là ứng phó thảm họa, bao gồm giám sát thiên tai, tìm kiếm cứu nạn trong lũ lụt, cháy rừng và sạt lở đất. Đây là lĩnh vực có mức độ phù hợp cao với điều kiện tự nhiên của Việt Nam nhờ khả năng phản ứng nhanh và chi phí thấp.
Hai nhóm ứng dụng còn lại là du lịch trải nghiệm và vận tải hàng không, trong đó vận chuyển hành khách vẫn còn bị giới hạn bởi công nghệ pin và tầm bay, nhưng tiềm năng dài hạn là rất lớn.
Về dài hạn, kinh tế tầm thấp không chỉ dừng lại ở drone, mà có thể mở rộng thành một hệ sinh thái tích hợp với hạ tầng số, viễn thông 5G-6G, hệ thống quản lý không lưu tầm thấp (UTM) và các trung tâm điều phối dựa trên AI. Những nền tảng này cho phép quản lý giao thông đa tầng an toàn, đồng thời hỗ trợ mạnh mẽ cho hạ tầng viễn thông mặt đất, bao gồm cả vận chuyển và triển khai thiết bị.
Quy mô thị trường kinh tế tầm thấp toàn cầu năm 2025 ước đạt 50-180 tỷ USD và dự kiến tăng trưởng khoảng 13% mỗi năm, đạt 250-330 tỷ USD vào năm 2030. Động lực tăng trưởng đến từ thương mại, vận tải số, hạ tầng mạng, công nghiệp, cùng với quốc phòng, an ninh.
Để một nền kinh tế tầm thấp phát triển thành công, cần hội tụ năm yếu tố then chốt: Khung pháp lý và ưu đãi toàn diện; lựa chọn các trường hợp sử dụng ưu tiên có tác động kinh tế - xã hội rõ ràng; xây dựng hệ sinh thái công nghệ; triển khai các khu thí điểm, sandbox; và mở rộng quy mô công nghiệp.
Đối với Việt Nam, cơ hội chính sách có thể được tiếp cận theo 3 định hướng.
Thứ nhất là khai phá các lĩnh vực kinh tế trọng điểm như nông nghiệp, logistics, vận tải và đô thị, với tiềm năng tăng năng suất khoảng 10% khi áp dụng công nghệ tầm thấp.
Thứ hai là tăng cường an ninh quốc gia và năng lực giám sát trong phòng chống thiên tai và quản lý biên giới.
Thứ ba là hình thành các cụm công nghệ và xuất khẩu chuyên biệt, tập trung vào linh kiện AI, phần mềm và giải pháp "Made in Vietnam".
Chuỗi giá trị của kinh tế tầm thấp bao gồm khoảng 50 khối công nghệ khác nhau, đòi hỏi Việt Nam phải lựa chọn có trọng tâm thay vì phát triển dàn trải.
Do đó, chúng tôi đưa ra 5 kiến nghị. Đó là Việt Nam cần xây dựng chiến lược kinh tế tầm thấp quốc gia rõ ràng và thực tế; thiết kế lộ trình chính sách gắn với hàng không dân dụng, quốc phòng và quản lý không gian bay; triển khai các mô hình thí điểm tại khu vực trọng điểm hoặc khu thương mại tự do; ưu tiên làm chủ công nghệ lõi thông qua hợp tác chiến lược; và tăng tốc đầu tư hạ tầng hiện đại cùng đào tạo nguồn nhân lực trong lĩnh vực robot, AI và hàng không.

TS. Phạm Tuấn Anh, Giám đốc Công nghệ thông tin, Tổng Giám đốc Công ty Viễn thông và CNTT (VNTT) Tập đoàn Becamex, chia sẻ về mô hình chuyển đổi số, chuyển đổi xanh công nghiệp Becamex. Ông Tuấn cho biết, trong suốt 30 năm qua, Tập đoàn Becamex là một trong những đơn vị hàng đầu trong thu hút và phát triển theo mô hình công nghiệp - đô thị - dịch vụ, đã tham gia tích cực vào quá trình chuyển đổi mô hình tăng trưởng tại nhiều địa phương, nổi bật là tỉnh Bình Dương, vùng phía bắc Thành phố Hồ Chí Minh. Từ một nền nông nghiệp, Becamex đã chuyển đổi sang phát triển công nghiệp theo chiều rộng, đưa nông thôn trở thành đô thị và nâng cao trình độ người lao động trở thành công nhân, trí thức.
Với mô hình phát triển này, Tập đoàn Becamex đã có sự lan tỏa mạnh mẽ. Dưới sự chỉ đạo của Chính phủ và các bộ, ban, ngành, Becamex phát triển các liên doanh như khu công nghiệp Việt Nam - Singapore (VSIP). Hiện nay, VSIP đã có mặt tại 13/34 tỉnh, thành phố và dự kiến sẽ mở rộng ra 20 địa phương trong 5 năm tới. Bên cạnh VSIP, Becamex còn hình thành các liên doanh khác như BW Industrial hợp tác với Warburg Pincus để phát triển thương mại, dịch vụ, logistics; VNTT hợp tác với Nhật Bản để phát triển viễn thông, công nghệ thông tin và công nghiệp 4.0; hay Tokyo Nhật Bản trong lĩnh vực phát triển đô thị. Các đơn vị này cũng đã phát triển và lan tỏa mô hình ra nhiều tỉnh, thành phố trên cả nước.
Khoảng từ năm 2016, trước những thách thức của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư, lãnh đạo Tập đoàn đã chỉ đạo nghiên cứu các xu hướng toàn cầu, các chiến lược phát triển công nghiệp 4.0 và vượt qua bẫy thu nhập trung bình. Từ đó, Becamex đã xây dựng và định hình chiến lược phát triển công nghiệp của Tập đoàn. Hai xu hướng chính của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 là thông minh hóa và xanh hóa, hay còn gọi là chuyển đổi số và chuyển đổi xanh. Trong đó, hệ thống sản xuất sẽ chuyển đổi từ tự động hóa sang tự hành, và thị trường tín chỉ carbon trở thành một sân chơi mới mà các quốc gia cần tham gia để giành lợi thế trong cuộc đua sản xuất và xuất khẩu.
Đối diện với những thách thức này, bài toán đặt ra là chuyển đổi mô hình phát triển cho Becamex từ thông minh hóa sang xanh hóa trên nền tảng mô hình công nghiệp - đô thị - dịch vụ.
Về mặt thông minh hóa, Becamex xây dựng các trung tâm xuất sắc, trung tâm sản xuất thông minh, công nghiệp 4.0, phòng lab công nghệ 4.0, trường đại học, và các trung tâm Fab Lab, Tech Lab. Dự án nổi bật trong mảng xanh là việc VSIP cung cấp toàn bộ năng lượng tái tạo cho nhà máy Lego tại khu công nghiệp VSIP 3. Dự kiến, dự án này sẽ giúp giảm 15.000 tấn CO2 mỗi năm. Thông qua quá trình chuyển đổi mô hình phát triển, Becamex cũng tạo ra những sản phẩm và dịch vụ mới cho thế hệ tiếp theo của Tập đoàn.
Trên cơ sở kinh nghiệm thực tiễn, đại diện Becamex nêu một số kiến nghị:
Thứ nhất, ở tầm vĩ mô, chúng ta nên xem xét hình thành các trung tâm xuất sắc về chuyển đổi xanh và chuyển đổi số cho doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp vừa và nhỏ (SMEs). Việc này sẽ giúp gia tăng năng suất lao động và có thể hình thành một trung tâm đa điểm đến ở quy mô quốc gia.
Thứ hai, ưu tiên hỗ trợ các nhà đầu tư FDI về thuế và đất đai thông qua các doanh nghiệp đã có ưu tiên sử dụng công nghệ nội địa và địa phương hóa chuỗi cung ứng. Đây là một chiến lược kép, vừa hỗ trợ doanh nghiệp nội địa, vừa chuyển đổi mô hình và hỗ trợ nhà đầu tư.
Thứ ba, hỗ trợ gián tiếp thông qua các doanh nghiệp hạ tầng hoặc doanh nghiệp công nghệ Việt Nam.
Cuối cùng, chuyển đổi mô hình phát triển đòi hỏi chúng ta phải địa phương hóa và nội địa hóa chuỗi cung ứng, đồng thời hỗ trợ các nhà đầu tư song hành cùng doanh nghiệp nội địa cùng nhau phát triển.
Theo chinhphu.vn























