Trong dự thảo Luật Quản lý thuế (sửa đổi), quy định về bảo mật và công khai thông tin người nộp thuế được nêu rất cụ thể. Theo đó, cơ quan quản lý thuế, công chức thuế, kể cả những người từng là công chức thuế, các tổ chức, cá nhân cung cấp hoặc trao đổi thông tin, cùng đơn vị làm dịch vụ thủ tục về thuế đều có trách nhiệm giữ bí mật thông tin người nộp thuế, trừ các trường hợp được pháp luật cho phép. Việc cung cấp thông tin chỉ thực hiện khi có yêu cầu bằng văn bản để phục vụ hoạt động tố tụng, thanh tra, kiểm toán, hoặc khi cung cấp cho cơ quan quản lý nhà nước, cơ quan điều tra, tòa án, kiểm sát, kiểm toán và các cơ quan có thẩm quyền khác. Ngoài ra, thông tin cũng có thể được trao đổi với cơ quan thuế nước ngoài theo các điều ước, thỏa thuận quốc tế mà Việt Nam đã ký kết hoặc tham gia. Các đơn vị nhận thông tin này bắt buộc phải sử dụng đúng mục đích và tiếp tục giữ bí mật theo đúng quy định.

Cơ sở dữ liệu phục vụ công tác quản lý thuế được hình thành từ nhiều nguồn, bao gồm: cơ sở dữ liệu thương mại, cơ sở dữ liệu nội bộ của cơ quan thuế, dữ liệu công khai từ các doanh nghiệp trên thị trường chứng khoán, các sàn giao dịch hàng hóa, dịch vụ trong nước và quốc tế; dữ liệu từ các bộ, ngành, cơ quan nhà nước công bố hoặc cung cấp; cũng như thông tin được trao đổi trong hợp tác quốc tế về thuế. Các dữ liệu này là nền tảng quan trọng để cơ quan thuế giám sát, phân tích và đưa ra các quyết định quản lý phù hợp.
Nội dung quản lý thuế trong dự thảo được mở rộng và bao quát nhiều lĩnh vực: từ đăng ký, khai, tính, nộp, hoàn, miễn, giảm thuế; xử lý nợ thuế, miễn tiền phạt, tiền chậm nộp; cưỡng chế thi hành quyết định hành chính; đến quản lý hóa đơn, chứng từ điện tử; kiểm tra, xử lý vi phạm; giải quyết khiếu nại, tố cáo; hỗ trợ, tuyên truyền chính sách thuế; quản lý rủi ro và tuân thủ. Đồng thời, quản lý thuế còn bao gồm hợp tác quốc tế, thực hiện các cam kết và điều ước quốc tế, cũng như quản lý thuế đối với giao dịch xuyên biên giới, kinh tế số, thương mại điện tử, tài sản số và các loại hình kinh tế mới phát sinh.
Dự thảo cũng liệt kê rõ các hành vi nghiêm cấm trong quản lý thuế. Trong đó có: thông đồng, bao che giữa người nộp thuế và cán bộ thuế để chuyển giá, trốn thuế, gian lận hoàn thuế; lợi dụng chức vụ để tiết lộ thông tin trái phép; làm sai lệch kết quả kiểm tra; nhũng nhiễu, gây phiền hà; chiếm đoạt, sử dụng sai mục đích tiền thuế; kê khai sai, chậm hoặc không kê khai; cản trở hoạt động công vụ; sử dụng mã số thuế trái phép; không lập hóa đơn, sử dụng hóa đơn chứng từ giả, bất hợp pháp; gian lận hóa đơn điện tử; xâm nhập, phá hoại hệ thống dữ liệu; phát tán thông tin sai lệch gây ảnh hưởng đến uy tín cơ quan thuế; và các vi phạm khác trong khấu trừ, hoàn thuế giá trị gia tăng. Tất cả những hành vi này đều bị xử lý nghiêm theo pháp luật.
Hà Trần (t/h)





















