THCL Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội (LĐ-TB&XH) đang dự thảo Nghị định quy định mức lương tối thiểu vùng. Theo đó, bộ đề xuất tăng mức lương tối thiểu vùng từ 180.000-250.000 đồng.
Đối tượng tăng lương là người lao động làm việc ở doanh nghiệp, liên hiệp hợp tác xã, hợp tác xã, tổ hợp tác, trang trại, hộ gia đình, cá nhân và các cơ quan, tổ chức có sử dụng lao động theo hợp đồng lao động.
Cụ thể, quy định mức lương tối thiểu vùng áp dụng đối với doanh nghiệp gồm 4 mức như sau: Mức 3,75 triệu đồng/tháng, áp dụng đối với vùng 1; mức 3,32 triệu đồng/tháng, áp dụng đối với vùng 2; mức 2,9 triệu đồng/tháng, áp dụng đối với vùng 3 và mức 2,58 triệu đồng/tháng áp dụng đối với vùng 4.
Theo Bộ LĐ-TB&XH, mức lương tối thiểu trên (tăng từ 180.000-250.000 đồng so với hiện hành năm 2016, tương ứng với mức tăng theo tỷ lệ phần trăm từ 7,1-7,5% tùy theo từng vùng, mức bình quân tăng 7,3%) được tính toán dựa trên cơ sở bù đủ trượt giá sinh hoạt năm 2016 dự kiến khoảng 4,5-5% để bảo đảm tiền lương thực tế cho người lao động; cải thiện theo mức tăng năng suất lao động xã hội khoảng 2-2,5% để thực hiện lộ trình điều chỉnh bảo đảm nhu cầu tối thiểu của người lao động.
Nếu thực hiện theo phương án nêu trên thì đáp ứng được khoảng từ 94% nhu cầu sống tối thiểu của người lao động và gia đình họ tùy theo từng vùng.
Bộ cho biết, đề xuất phương án điều chỉnh nêu trên cũng đã tính đến các tác động về việc làm, thất nghiệp, điều kiện sản xuất, kinh doanh của các doanh nghiệp vẫn còn khó khăn, đặc biệt là trong bối cảnh năm 2016 thực hiện luật Bảo hiểm xã hội đóng BHXH, y tế, thất nghiệp cho người lao động trên cả mức lương và phụ cấp lương (thay vì chỉ đóng trên mức lương như hiện nay), mức độ ảnh hưởng đến chi phí sản xuất của doanh nghiệp (dự báo tăng bình quân khoảng 0,3-0,5%, trong đó ngành dệt may, da giày tăng khoảng 1,7-2,7%, đồng thời từng bước bảo đảm nhu cầu sống tối thiểu của người lao động và phù hợp với khuyến nghị của Hội đồng Tiền lương quốc gia.
Về địa bàn áp dụng, Bộ Lao động-Thương binh và Xã hội đề xuất cơ bản giữ nguyên 4 vùng và danh mục địa bàn ở 4 vùng theo quy định tại Nghị định số 122/2015/NĐ-CP ngày 14/11/2015 của Chính phủ.
Tuy nhiên, có xem xét, cân đối điều chỉnh, bổ sung một số địa bàn áp dụng theo đề nghị của UBND tỉnh, thành phố, trực thuộc trung ương, cụ thể: Điều chỉnh phân vùng từ vùng 2 lên vùng 1 đối với huyện Tân Thành thuộc tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu; từ vùng 3 lên vùng 2, gồm: TP Hội An, Tam Kỳ thuộc tỉnh Quảng Nam, TP Trà Vinh thuộc tỉnh Trà Vinh; Từ vùng 4 lên vùng 3, gồm: huyện Quế Sơn, Thăng Bình thuộc tỉnh Quảng Nam, thị xã Duyên Hải thuộc tỉnh Trà Vinh và điều chỉnh từ vùng 3 xuống vùng 4 đối với huyện Giang Thành thuộc tỉnh Kiên Giang.
Hoan Nguyễn