Nhóm hàng lần đầu tiên góp mặt (sau 6 tháng đầu năm) là máy móc, thiết bị, dụng cụ và phụ tùng với trị giá 10,42 tỷ USD, tăng 26,5% (tương đương 2,18 tỷ USD) so với cùng kỳ năm trước.
Các thị trường nhập khẩu máy móc, thiết bị, dụng cụ, phụ tùng của Việt Nam trong 6 tháng từ đầu năm chủ yếu: Mỹ với 2,93 tỷ USD, tăng mạnh 73,5%; EU đạt 1,33 tỷ USD, tăng 29,7%; Nhật Bản với 809 triệu USD tăng 6%; Hàn Quốc với 754 triệu USD, tăng 27,4%...
Ảnh minh họa
Trong khi đó, nhóm hàng xuất khẩu lớn nhất vẫn là điện thoại các loại và linh kiện với kim ngach đạt 21,95 tỷ USD, nhưng giảm 6,5% so với cùng kỳ năm 2019. 6 tháng đầu năm xuất khẩu nhóm hàng này sang EU đạt 4,92 tỷ USD, tăng 22,3%; sang thị trường Mỹ đạt trị gần 4 tỷ USD, tăng 5,2%; sang thị trường Trung Quốc đạt 3,73 tỷ USD, tăng mạnh gấp 2,4 lần; sang thị trường Hàn Quốc đạt 2,51 tỷ USD, tăng 6%...
Máy vi tính sản phẩm điện tử và linh kiện đứng vị trí thứ hai với kim ngạch đạt 19,47 tỷ USD tăng 25,4% so với cùng kỳ năm 2019.
Xuất khẩu máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh kiện sang Trung Quốc trong 6 tháng đầu năm đạt 5,41 tỷ USD, tăng 36,4% so với cùng kỳ năm trước. Tiếp đến là Mỹ đạt 4,38 tỷ USD, tăng 1,9 lần; EU đạt 2,55 tỷ USD, tăng 5,8%... Dệt may là nhóm hàng xuất khẩu với kim ngạch đạt 13,18 tỷ USD, giảm 12,7% so với cùng kỳ năm trước.
Trong 6 tháng, Mỹ vẫn là thị trường xuất khẩu hàng dệt may lớn nhất của Việt Nam với trị giá đạt 6,19 tỷ USD, giảm 11,9% so với cùng kỳ năm trước. Các thị trường chủ lực khác có thể kể đến như Nhật Bản với 1,64 tỷ USD, giảm 7%; thị trường EU đứng thứ ba với 1,6 tỷ USD, giảm 19,2%...
Như vậy, trong 4 nhóm hàng xuất khẩu chủ lực có sự đối lập rõ nét khi máy vi tính sản phẩm điện tử và linh kiện; máy móc, thiết bị, dụng cụ, phụ tùng đạt mức tăng trưởng cao so với cùng kỳ 2019, trong khi 2 nhóm hàng còn lại sụt giảm.
Với kết quả hơn 65 tỷ USD, 4 nhóm hàng chủ lực chiếm đến 53% tổng kim ngạch xuất khẩu cả nước trong 6 tháng đầu năm.
PV