Trao quyền khảo nghiệm cho doanh nghiệp trong khuôn khổ pháp lý rõ ràng là xu hướng tất yếu
Tiến sỹ Nguyễn Thị Thanh Thủy, nguyên Vụ trưởng Vụ Khoa học, Công nghệ và Môi trường, Bộ Nông nghiệp và Môi trường cho biết, ở nhiều nước phát triển, khảo nghiệm giống cây trồng là một quá trình chặt chẽ nhưng được tổ chức theo hướng trao quyền chủ động cho doanh nghiệp.

Mô hình này không chỉ nâng cao trách nhiệm và năng lực nghiên cứu – phát triển của doanh nghiệp, mà còn giúp tiết kiệm ngân sách nhà nước, rút ngắn thời gian đưa sản phẩm mới ra thị trường: "Hệ thống quản lý Nhà nước tập trung vào việc ban hành các văn bản quy phạm pháp luật và hướng dẫn (guidelines) để doanh nghiệp nghiên cứu và tuân thủ.
Trong quá trình tự thực hiện, doanh nghiệp phải tuân thủ đầy đủ các quy định của Nhà nước, đồng thời phối hợp chặt chẽ với cơ quan quản lý. Nhà nước cũng đồng hành cùng doanh nghiệp thông qua việc giám sát và kiểm tra xuyên suốt. Khi doanh nghiệp hoàn tất khảo nghiệm, họ lập báo cáo và trình lên cơ quan có thẩm quyền. Toàn bộ quá trình này, bao gồm số liệu, tính minh bạch, tính xác thực và cách bố trí thí nghiệm, đều được Nhà nước giám sát và thông qua trong suốt quá trình thực hiện."
Việc trao quyền khảo nghiệm cho doanh nghiệp trong khuôn khổ pháp lý rõ ràng là xu hướng tất yếu, giúp rút ngắn chu trình đưa công nghệ vào sản xuất. Tuy nhiên, để mô hình này vận hành hiệu quả, cần có cơ chế hậu kiểm chặt chẽ, hệ thống tiêu chí đánh giá rủi ro rõ ràng và nền tảng dữ liệu dùng chung. Song hành với đó, phải đẩy nhanh việc ban hành các văn bản hướng dẫn thi hành Luật Khoa học và Công nghệ mới, nhằm chuyển đổi tư duy quản lý từ tiền kiểm sang hỗ trợ – giám sát, tạo điều kiện để đổi mới sáng tạo lan tỏa nhanh hơn trong nông nghiệp.
Tiến sỹ Nguyễn Thị Thanh Thuỷ phân tích, cơ chế thử nghiệm – sản xuất nếu được vận hành đúng cách sẽ tạo ra một mối quan hệ mới giữa cơ quan quản lý Nhà nước và doanh nghiệp: Nhà nước không làm thay, nhưng thiết kế "đường ray" để doanh nghiệp tự tin bứt phá:
"Luật Khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo mới ban hành bao gồm các chính sách nhằm hỗ trợ doanh nghiệp tiếp cận nhanh các cơ chế đổi mới. Các chính sách này giúp thiết lập quy trình và thủ tục để thử nghiệm, đánh giá nhanh, từ đó hỗ trợ doanh nghiệp và người dân ứng dụng các tiến bộ kỹ thuật và công nghệ mới vào thực tiễn sản xuất một cách hiệu quả hơn. Trong cơ chế sandbox, Bộ Khoa học và Công nghệ cũng rất quan tâm đến vấn đề này. Sau khi Luật 93 (Luật Khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo) có hiệu lực từ ngày 1/10/2025, kỳ vọng sẽ có nhiều nghị định và thông tư hướng dẫn được ban hành, tạo ra các chính sách mới để hỗ trợ và đồng hành cùng doanh nghiệp, người dân và nhà sản xuất, qua đó thúc đẩy nền sản xuất nông nghiệp phát triển." 
Một cơ chế thử nghiệm linh hoạt không chỉ giúp rút ngắn chu trình từ nghiên cứu đến sản xuất, mà còn tạo ra hành lang pháp lý rõ ràng để công nghệ phát triển đúng hướng. Khi doanh nghiệp được trao quyền khảo nghiệm trong khuôn khổ minh bạch, khi cơ quan quản lý đóng vai trò kiến tạo thay vì can thiệp sâu, và khi các chính sách kịp thời tháo gỡ rào cản thủ tục – đó chính là đòn bẩy để đổi mới sáng tạo trở thành động lực tăng trưởng mới cho ngành nông nghiệp.
Cơ hội và tiềm năng phát triển nông nghiệp Việt Nam
Tiến sỹ Nguyễn Thị Lan Hương, chuyên gia Kinh tế, Ban Nghiên cứu và Hỗ trợ chính sách, Tổ chức Nông lương Liên Hiệp quốc, tại Rome, Ital chia sẻ một số ý kiến, từ góc độ quốc tế, về cơ hội và tiềm năng phát triển nông nghiệp Việt Nam: Công bằng mà nói thì ngành nông nghiệp Việt Nam khá cạnh tranh trên thị trường thế giới. Rất là hiếm một nước thu nhập trung bình có mật độ dân số cao mà sản xuất nông nghiệp không những đủ nuôi sống toàn dân mà còn đóng góp tích cực vào xuất khẩu, cải thiện cân bằng cán cân thanh toán. Như vậy, nông nghiệp Việt Nam vừa đảm bảo an ninh lương thực quốc gia và dinh dưỡng, vừa góp phần tạo nguồn ngoại tệ để nhập khẩu thiết bị công nghệ cao và đầu tư phát triển các ngành công nghiệp khác. Và đây là việc mà rất ít nước nông nghiệp khác có thể làm được.
Mặc dù nông nghiệp Việt Nam vẫn chưa thể gọi là nông nghiệp công nghệ cao, nhưng khoa học công nghệ áp dụng trong nông nghiệp lại tương đối hiệu quả. “Tương đối” có nghĩa là khi ta so sánh giữa chi phí đầu tư và năng suất tăng thêm. Với mức đầu tư tương đối thấp nhưng công nghệ Việt Nam lại cho năng suất lao động và năng suất đất đai khá cao. Đấy cũng chính là lý do tại sao các bạn Châu Phi luôn muốn hợp tác với chuyên gia Việt Nam.
Theo Tiến sỹ Nguyễn Thị Lan Hương, nông nghiệp là một ngành có vai trò vô cùng quan trọng trong nền kinh tế quốc dân. Một đất nước mà vẫn còn hơn 65% dân số sinh sống ở nông thôn với nguồn sinh kế chính dựa trên nông nghiệp và các ngành nghề liên quan đến nông nghiệp, thì chúng ta không có lý do để coi nhẹ kinh tế nông nghiệp. Ai đó đã từng nói “nông nghiệp là trụ đỡ của kinh tế quốc dân” kể ra cũng không phải là nói quá. Mình cũng nhấn mạnh thêm, kinh tế nông nghiệp khác với khái niệm kinh tế nông thôn. Kinh tế nông thôn thực chất là kinh tế vĩ mô, là sự phối hợp phát triển nhiều ngành kinh tế quốc dân trên một vùng lãnh thổ.
Tiến sỹ Lan Hương nhấn mạnh: Hiệp định thương mại của WTO hay các tổ chức tự do hóa thương mại khu vực bao giờ cũng tách đàm phán Hiệp định nông nghiệp (AoA) riêng song song Hiệp định khung khác. Tại sao lúc nào hàng nông sản cũng được đàm phán trong Thỏa thuận riêng? Bởi nông nghiệp là một ngành đặc thù, gắn liền với an ninh lương thực và vấn đề đói nghèo. Dân không ấm bụng thì an ninh quốc gia cũng dễ khủng hoảng. Dinh dưỡng không đủ thì dễ mắc bệnh, chậm phát triển cả về thể chất và trí tuệ, ảnh hưởng đến chất lượng nguồn lực lao động của nhiều thế hệ và vị thế cạnh tranh của đất nước.
PV (t/h)






















