Đã đạt được nhiều tiêu chuẩn do Tổ chức Y tế Thế giới quy định, xuất khẩu tân dược sang nhiều nước trên thế giới, nhưng tân dược sản xuất tại Việt Nam, vẫn không có chỗ đứng trong nước, xu hướng sử dụng thuốc nội tại các bệnh viện ngày càng giảm…

Ông Lê Văn Truyền, nguyên Thứ trưởng Bộ Y tế

Xung quanh vấn đề thuốc nội và thuốc ngoại, phóng viên Thương hiệu & Công luận đã có cuộc trao đổi với ông Lê Văn Truyền, nguyên Thứ trưởng Bộ Y tế.

Có một thực tế rất mâu thuẫn là, người tiêu dùng (NTD - hay người bệnh) ở nước ta không tự ý thức được nên dùng thuốc nội hay thuốc ngoại, nhưng lại chuộng thuốc ngoại hơn thuốc nội? Ý kiến của ông về vấn đề này?

Dược phẩm là hàng hóa đặc biệt. Trong đa số trường hợp, NTD không có quyền lựa chọn thuốc mà phải thông qua việc khám bệnh và kê đơn của thầy thuốc. Mặt khác, NTD khó tiếp cận và không hiểu biết đầy đủ thông tin về sản phẩm. Đây là sự mất cân đối thông tin giữa nhà sản xuất và NTD, vì thế có thể coi thị trường dược phẩm là một thị trường không hoàn hảo, dẫn tới nhận thức và tâm lý của NTD có thể lệch lạc. Thực tế, có một bộ phận không nhỏ NTD chuộng thuốc ngoại hơn thuốc nội. Đây là một hiện tượng xã hội phức tạp, ngành y tế nên có biện pháp đánh giá, phân tích và tìm ra các nguyên nhân, khắc phục các lệch lạc, khiếm khuyết của thị trường, hướng dẫn và bảo vệ NTD, đề ra một số biện pháp lâu dài để khắc phục, đưa việc sử dụng thuốc vào quỹ đạo, dựa trên các mục tiêu “Sử dụng thuốc hợp lý, an toàn và có hiệu quả về kinh tế”.

Ông đã từng lo ngại về việc các đơn thuốc được kê hiện nay có tỷ lệ thuốc ngoại nhiều hơn thuốc nội. Vậy có hay không sự “cố tình” của bác sỹ trong việc thực hiện kê đơn thuốc?

Nghiên cứu từ Bộ Y tế cho thấy, công nghiệp dược trong nước hiện đã phát triển cả về lượng và chất, sản lượng thuốc sản xuất trong nước chiếm khoảng 50% giá trị thuốc tiêu dùng cả nước hàng năm. Nhiều nhà máy dược phẩm trong nước đã đạt GMP của Tổ chức Y tế Thế giới, tiêu chuẩn GMP của Cộng đồng châu Âu và các nước phát triển. Tuy nhiên, xu hướng sử dụng thuốc nội tại bệnh viện TW, tuyến tỉnh và thành phố ngày càng giảm. Không thể phủ nhận việc thực hành kê đơn của thầy thuốc hiện nay chịu tác động của lợi ích vật chất từ các công ty dược, nhiều bác sỹ cố tình kê đơn thuốc ngoại, để ăn chia hoa hồng.

Nguyên nhân dẫn đến vấn đề này là do công tác truyền thông đến đội ngũ thầy thuốc và người bệnh còn yếu, thiếu bằng chứng khoa học đáng tin cậy về chất lượng và hiệu quả điều trị của thuốc trong nước. Việt Nam đã tham gia WTO, nhưng chúng ta vẫn chưa xây dựng được các “rào cản kỹ thuật” để hạn chế thuốc nước ngoài chất lượng kém hoặc không hơn chất lượng thuốc trong nước, được lưu hành ở Việt Nam. Thị trường thuốc trong nước có quá nhiều chủng loại, nguồn gốc và chất lượng khác nhau, làm rối trí người kê đơn và người tiêu dùng. Bên cạnh đó, các cơ quan quản lý khám - chữa bệnh cũng chưa ban hành đầy đủ các phác đồ điều trị chuẩn làm cơ sở hướng dẫn kê đơn và thực hành điều trị; việc kiểm soát chi tiêu công trong các bệnh viện công và kiểm soát sử dụng thuốc của cơ quan bảo hiểm y tế theo hướng sử dụng thuốc gốc sản xuất trong nước chưa chặt chẽ. Chính những điều này đã tạo kẽ hở cho các hiện tượng tiêu cực và lệch lạc trong kê đơn và sử dụng thuốc.

Nhiều NTD vẫn cho rằng, chất lượng của thuốc sản xuất trong nước rất thấp, thậm chí thuốc được cho là chất lượng cao trong nước cũng chỉ tương đương với chất lượng thuốc của một số nước châu Á. Ông đánh giá thế nào về quan niệm này?

Trong bối cảnh toàn cầu hóa, không có quốc gia nào lại đề ra phương châm tự túc thuốc và đóng cửa thị trường dược phẩm. Đã có hàng chục nhà máy dược phẩm ở Ấn Độ được FDA Hoa Kỳ kiểm tra và cho phép xuất khẩu thuốc vào thị trường Hoa Kỳ. Cơ quan quản lý dược Nhật Bản có một bộ phận kiểm tra hơn 20 nhà máy dược phẩm nước ngoài ở châu Á, trong đó có nhà máy ở Việt Nam, để cho phép xuất khẩu dược phẩm vào Nhật Bản. Nói như vậy để thấy rằng, dược phẩm Việt Nam cũng đã có mặt tại thị trường châu Âu và được chấp nhận ở nhiều quốc gia “khó tính”. Trong lĩnh vực dược phẩm, không thể nhận định chung chung là thuốc châu Âu và châu Mỹ là tốt, thuốc châu Á không tốt bằng. Thuốc là hàng hóa đặc biệt nên việc đánh giá chất lượng thuốc chính xác nhất - do cơ quan giám sát/kiểm nghiệm chất lượng thuốc và cơ quan quản lý dược. Việc đánh giá được tiến hành trên từng cơ sở/nhà máy sản xuất dược phẩm theo những tiêu chí chặt chẽ của hệ thống quy định “Thực hành sản xuất thuốc tốt”. Tại Việt Nam, đã có hơn 110 nhà máy đạt tiêu chuẩn GMP-WHO, một số nhà máy đạt tiêu chuẩn GMP-EU, GMP Nhật Bản, Australia… Tôi cho rằng, chất lượng thuốc của các nhà máy này đã đạt các tiêu chuẩn chung, được quốc tế thừa nhận và hơn hẳn chất lượng một số dược phẩm nhập khẩu.

Giải pháp nào để thuốc nội có chỗ đứng trên thị trường trong nước và quốc tế? Muốn NTD Việt Nam không quay lưng với thuốc nội, chúng ta cần phải hành động ra sao?

Trong nước hiện nay, đa số là thuốc gốc (thuốc generic). Thuốc generic có một vị trí rất quan trọng trong công tác chăm sóc sức khỏe nhân dân do hiệu quả rõ ràng, an toàn và giá cả phải chăng. Tổ chức Y tế Thế giới đã khuyến cáo các quốc gia, trong đó có Việt Nam, cần xây dựng chính sách về sử dụng generic, xây dựng luật về thuốc generic. Đây là một khuyến nghị hợp lý trong bối cảnh hiện nay để thuốc nội có chỗ đứng trong lòng NTD.

NTD Việt Nam không thể tự mình quyết định việc dùng thuốc. Một khi thầy thuốc đã kê đơn thuốc ngoại, một khi NTD chưa nhận thức đúng đắn về thuốc nội, thuốc gốc sản xuất trong nước, thì khó có thể thuyết phục họ tin dùng thuốc nội. Để tác động và thay đổi hành vi của NTD, cần có sự tác động đồng bộ của nhà sản xuất thuốc, của thầy thuốc và cả sự chỉ đạo, giám sát về quy chế và chuyên môn của các cơ quan chức năng. Với tư cách là cơ quan quản lý nhà nước của hệ thống chăm sóc sức khỏe nói chung, hệ thống khám - chữa bệnh và hệ thống quản lý thuốc nói riêng, Bộ Y tế cần và có thể xây dựng một chương trình hành động để triển khai thực hiện chủ trương “Người Việt dùng thuốc Việt”. Trong đó, Bộ Y tế cần điều chỉnh các hoạt động của đội ngũ thầy thuốc tại các cơ sở điều trị công lập và dân lập, quản lý hoạt động của các nhà sản xuất và phân phối dược phẩm, giám sát chi tiêu công và bảo hiểm y tế trong khuôn khổ các quy chế chuyên môn và quản lý liên quan đến sản xuất và sử dụng thuốc.

Xin cảm ơn ông!

Tổ chức Y tế Thế giới cho biết, tân dược giả có nguồn gốc từ 67 nước trên thế giới, trong đó chủ yếu được nhập từ Ấn Độ và Trung Quốc. Thuốc giả hiện chiếm khoảng 10 – 15% thuốc tân dược trên thị trường các nước. Lợi nhuận từ sản xuất, buôn bán thuốc giả có thể cao gấp 200 – 450 lần sản xuất thuốc tân dược thông thường. Doanh thu từ tân dược giả mỗi năm có thể lên tới 60 tỷ USD/năm. Tân dược giả, mỗi năm có thể cướp đi sinh mạng của 200.000 người.

NGUYỄN HẠNH (Thực hiện)