Cá ngừ đang là mặt hàng xuất khẩu lớn thứ 3 của Việt Nam sang EU. Trong 10 năm qua, EU luôn là thị trường xuất khẩu cá ngừ lớn thứ 2 của Việt Nam.
Sau khi Việt Nam chính thức kết thúc đàm phán với EU vào năm 2015, xuất khẩu cá ngừ của Việt Nam sang khối thị trường này đã tăng trưởng liên tục, giá trị xuất khẩu tăng từ 97 triệu USD (năm 2015) lên hơn 158 triệu USD (năm 2018).
Hiệp định EVFTA được ký kết, cá ngừ Việt Nam rộng cửa xuất khẩu sang EU (Ảnh minh hoạ)
Riêng 3 tháng đầu năm 2019 do vướng mắc trong các thủ tục nhập khẩu nguyên liệu, xuất khẩu cá ngừ của Việt Nam sang EU có sụt giảm. Nhưng sau đó đã tăng trưởng trở lại trong tháng 4 và tháng 5.
Tính riêng trong tháng 5, xuất khẩu cá ngừ của Việt Nam sang EU đạt gần 12 triệu USD, tăng 6% so với tháng 5/2018. Trong số các nước EU, xuất khẩu sang Hà Lan tiếp tục tăng trưởng ấn tượng, tăng 107% trong tháng này.
Theo số liệu thống kê của Trung tâm Thương mại Thế giới (ITC), Việt Nam đang là nguồn cung cá ngừ chế biến đóng hộp lớn thứ 14 và là nguồn cung thăn/philê cá ngừ đông lạnh lớn thứ 2 cho EU.
Các sản phẩm cá ngừ của Việt Nam xuất khẩu sang các nước EU đang khó cạnh tranh được với các nước như Philippines, Ecuador vì phải chịu mức thuế cao từ 18 – 24%.
Tuy nhiên, ngay sau khi EVFTA được ký kết, mức thuế này sẽ được gỡ bỏ ngay lập tức, hoặc cắt giảm dần dần về 0% sau từ 3-7 năm, hoặc miễn thuế theo hạn ngạch, đây sẽ là cơ hội để giúp nâng cao tính cạnh tranh cho các mặt hàng cá ngừ của Việt Nam tại khối thị trường này.
Tuy nhiên, EVFTA không chỉ mang lại cho ngành cá ngừ Việt Nam cơ hội mà còn cả những thách thức. Ngành cá ngừ Việt Nam vẫn còn nhiều hạn chế và bất cập như: hoạt động khai thác vẫn ở quy mô nhỏ lẻ, manh mún dẫn đến hiệu quả khai thác thấp, thiếu tính bền vững, cạnh tranh sản phẩm thấp cả về giá bán và chất lượng. Thêm nữa, thẻ vàng của Ủy ban Liên minh châu Âu (EC) đối với lĩnh vực khai thác hải sản Việt Nam ngày 23/10/2017 cũng là một bất lợi.
Bên cạnh đó, theo EVFTA, các sản phẩm cá ngừ xuất khẩu của Việt Nam sang EU muốn được hưởng thuế suất ưu đãi của Hiệp định cần phải có xuất xứ thuần túy. Trong khi đó nguồn cá ngừ nguyên liệu trong nước đang không đủ để đáp ứng nhu cầu sản xuất, xuất khẩu, hầu hết phải nhập khẩu từ các nước khác, mạng lưới cung cấp nguyên liệu cũng đang được cải thiện. Do đó, việc đáp ứng yêu cầu về quy tắc xuất xứ sẽ là một thử thách đối với ngành cá ngừ Việt Nam trong thời gian tới.
Ngọc Lan (t/h)