Ngày 21/12/1954, sau khi tiếp quản Thủ đô, Bác Hồ kính yêu đã về thăm Nhà máy đèn Bờ Hồ. Tại đây, Người đã căn dặn: “Nhà máy bây giờ là của nhân dân, của Chính phủ, của các cô, các chú. Các cô, các chú là chủ thì phải giữ gìn nhà máy làm cho nó phát triển hơn nữa…”. Từ đó, ngày 21 tháng 12 hàng năm đã trở thành Ngày truyền thống ngành Điện lực Việt Nam.
Năm 2020, kỷ niệm 66 năm Ngày truyền thống chính là dịp để CBCNV ngành Điện ôn lại lời căn dặn của Bác, điểm lại những mốc son trong lịch sử phát triển của ngành, đồng thời bày tỏ lòng biết ơn và tri ân tới những thế hệ làm điện đi trước, tới những cán bộ lão thành, những người đã cống hiến tâm huyết, sức lực và cả máu xương cho sự lớn mạnh của ngành Điện hôm nay.
Vào một buổi chiều đầu tháng 12/2020, tôi đến thăm ông Vũ Đình Hạ 85 tuổi, nguyên Trưởng phòng Vật tư Điện lực Quảng Ninh nay là Công ty Điện lực Quảng Ninh. Ông rất phấn khởi khi tôi giới thiệu là cán bộ Truyền thông, đến thăm ông và cùng ông ôn lại lịch sử của Nhà máy điện Cột 5. Ông Hạ kể rằng: Ông sinh ra trong một gia đình công nhân ngành điện, cha ông là thợ điện có kinh nghiệm đi dây, đi tuyến. Ông chính thức vào làm việc từ tháng 4/1956, ngày ấy những người được làm ở Nhà máy điện được tuyển chọn rất kỹ phải là con công nhân, gia đình cơ bản. Ban đầu ông được phân công làm bảo vệ vũ trang thuộc lực lượng Công an bảo vệ Nhà máy, sau đó do ông có vốn tiếng Pháp nên được phân công làm thủ kho vật tư, Phó phòng Vật tư, Trưởng phòng Vật tư qua các thời kỳ từ Nhà máy điện Cột 5, Sở phân phối điện 5, Điện lực Quảng Ninh nay là Công ty Điện lực Quảng Ninh. Cả cuộc đời với gần 40 năm cống hiến xây dựng ngành điện, ông về nghỉ hưu năm 1997, hiện nay ông đang sống tại căn nhà vườn với gia đình tại phường Hà Tu, thành phố Hạ Long.
Với tách trà nóng trong buổi chiều đông, hai bác cháu ngồi ôn lật từng trang ký ức hào hùng của Nhà máy điện Cột 5.
Nhà máy điện Cột 5 thuộc khu mỏ Hòn Gai năm xưa, do thực dân Pháp xây dựng từ năm 1920 đến năm 1926 thì hoàn thành. Mục đích nhằm có điện phục vụ cho việc khai thác than của bọn chủ mỏ thuộc Công ty than Bắc Kỳ, cùng với âm mưu khai thác than của đất nước ta đưa về làm giàu cho chính quốc.
Trong giai đoạn từ 1920-1954, lúc đầu Nhà máy chỉ có 07 lò hơi loại nhỏ 4 tấn/giờ và 04 tổ máy phát điện có công suất 1000kW/máy. Tổng công suất lắp đặt ban đầu là 4000kW. Đến năm 1939 bọn chủ tư bản Pháp cho lắp thêm 02 lò hơi loại 07 tấn/giờ và 01 máy phát điện 4000kW, nâng tổng công suất lắp đặt lên 8000kW. Nhưng thực tế vận hành đạt 4000 đến 6000kW. Hệ thống lưới điện sau Nhà máy gồm 04 máy biến áp loại 1.250KVA và gần 40 km đường dây 30kV. Đội ngũ công nhân Nhà máy điện Cột 5 lúc bấy giờ khoảng 150 người, đại đa số làm lao động nặng nhọc như đẩy xỉ, súc than đốt lò. Số công nhân kỹ thuật được lấy từ Hải Phòng, Nam Định hoặc các trường dạy nghề khác. Bọn cai ký, đốc công được thực dân Pháp đào tạo tại nơi khác để làm tay sai đắc lực. Năm 1953 nhu cầu khai thác than ngày càng lớn, do đó bọ chủ nhà máy đã mua them thiết bị từ Pháp sang và lắp thêm máy 6000kW, nâng tổng công suất của Nhà máy lên khoảng 14.000kW nhằm mục đích cung cấp điện cho việc khai thác than khu vực Hòn Gai, Cẩm Phả.
Giai đoạn trước năm 1954, những người công nhân Nhà máy điện Cột 5 lúc đó cũng cùng chung cảnh sống cơ cực như hàng ngàn công nhân khu mỏ khác. Thường xuyên bị cúp phạt tiền lương, đời sống khốn khó ở những lán trại lụp sụp, làm ra điện nhưng phải đốt đèn dầu. Trong những ngày khủng khiếp của nạn đói năm 1945, hơn 40 công nhân Nhà máy điện Cột 5 đã chết đói thê thảm.
Bên cạnh đó là cảnh sống xa hoa của bọn chủ mỏ, của tầng lớp cai ký, những bữa tiệc linh đình thừa thãi, những chiếc ô tô bóng loáng với hàng chục người phục vụ như vú em, đầu bếp…Nghịch cảnh đó đã làm trào dâng lên khí thế “tức nước vỡ bờ”, làm tăng thêm nỗi uất hận của người dân mất nước và kiếp sống nô lệ. Được Đảng lãnh đạo và chỉ lối đưa đường, những người công nhân Nhà máy điện Cột 5 đã sớm giác ngộ về lý tưởng gia cáp công nhân, một lòng đi theo cách mạng vùng lên đấu tranh, chống áp bức bóc lột của bọn chủ mỏ và bộ máy cai trị của bọn thực dân Pháp. Cùng sát cánh với công nhân vùng mỏ viết nên những trang sử vẻ vang và truyền thống anh hùng bất khuất của giai cấp công nhân mỏ Quảng Ninh. Ngọn lửa đấu tranh được thể hiện bằng các cuộc đình công rầm rộ, bước đầu là đình công tại khu vực Cẩm Phả, sau lan rộng ra Hòn Gai. Công nhân Nhà máy điện Cột 5 lúc này vẫn kiên cường đấu tranh và phối hợp chặt chẽ với phong trào công nhân trong toàn khu mỏ. Cuộc đình công kéo dài hàng tuần, bọn địch đã dùng mọi thủ đoạn như đe dọa, mua chuộc…Nhưng với tinh thần “Đồng tâm, kỷ luật” nên cuộc đình công đã dẫn đến thắng lợi, bọn chủ mỏ đã phải chấp nhận các yêu sách của công nhân vùng mỏ như đòi tăng lương, giảm giờ làm, cải thiện cuộc sống…
Giai đoạn từ năm 1954, Cuộc kháng chiến thần thánh của dân tộc ta đã đi đến thắng lợi, bằng chiến thắng lấy lừng là chiến dịch Điện Biên Phủ. Hội nghị Giơ-ne-vơ đã kết thúc thắng lợi, hòa bình được lập lại. Tuy nhiên đất nước tạm thời bị chia cắt. Nhưng với truyền thống đấu tranh anh dũng và tinh thần bất khuất của gia cấp công nhân vùng mỏ, công nhân điện Cột 5 với hàng ngàn công nhân khu mỏ bước vào cuộc đấu tranh mới với một niềm tin phấn khởi cao độ. Từ năm 1955 bắt đầu một giai đoạn mới, khu mỏ được giải phóng, hòa bình đã trở lại trên toàn miền Bắc, đất nước bước vào giai đoạn xây dựng CNXH tiến tới thống nhất đất nước. Từ người công nhân bị áp bức nô lệ dưới ách thực dân đế quốc, nay là chủ nhân của đất nước. Công nhân Nhà máy điện Cột 5 lại phấn khởi đem hết sức mình đóng góp vào việc ổn định và phát triển nguồn điện phục vụ cho việc khai thác than của đất nước. Với tình thần vượt khó khăn, dám nghĩ dám làm của người công nhân điện Cột 5 lại càng được phát huy. Đội ngũ cán bộ của Nhà máy vẫn có đủ trình độ điều hành, điển hình như bác Đỗ Văn Sớ - một cán bộ quản lý lão thành, bác Vũ Đình Bông là kỹ sư điện được phân công đến nhà máy sau ngày giải phóng. Dòng điện từ Nhà máy điện Cột 5 vẫn ngày đêm tỏa sáng.
Ông Lê Ba - Thứ trưởng Bộ Điện và Than chúc mừng ông Tạ Tô Thục - Giám đốc Sở điện 5 trong lễ khánh thành trạm điện Diezel 10.500kV tại Cột 5
Các đại biểu và lãnh đạo Nhà máy điện Cột 5 tại lễ đóng điện trạm điện Diezel 10.500kV
Đến năm 1958, do nhu cầu khai thác than của khu mỏ ngày càng lớn, công suất nhà máy quá thấp, thường xuyên chỉ phát từ 3000 - 4000kW, đặc biệt là hệ thống lò hơi thiếu nghiêm trọng. Chính phủ ta đã có chủ trương đề nghị Ba Lan giúp đỡ xây dựng thêm 02 lò hơi với công suất 32 tấn/giờ. Năm 1960 thì hoàn thành và đưa vào sử dụng, đưa công suất của nhà máy lên 9000 đến 10.000kW. Lúc này một số trạm biến áp và đường dây tải điện từ 2 đến 35kV đã được phát triển thêm nhiều, điện không chỉ phục vụ cho sản xuất than mà còn phục vụ cho một số ngành thủ công nghiệp, chiếu sáng và các khu dân cư, xóm chợ…Cũng trong kế hoạch 5 năm lần thứ nhất (1961-1965) Nhà nước đã khẳng định là phải tăng cường đầu tư cho ngành điện, một số nhà máy do Liên Xô giúp đỡ được xây dựng thêm, các tuyến đường dây 110kV đã được hình thành tại Quảng Ninh, tuyến đường dây 110kV Uông Bí - Mông Dương và trạm 110kV Mông Dương đã được xây dựng và hoàn thành vào năm 1965.
Thời kỳ CBCNV Nhà máy điện Cột 5 bảo vệ dòng điện và đánh thắng cuộc chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ
Bị thất bại nặng nề trên chiến trường miền Nam, đế quốc Mỹ đã mở rộng chiến tranh phá hoại bằng không quân ra miền Bắc, hòng làm tê liệt nền kinh tế XHCN, ngăn chặn chi viện của hậu phương cho tiền tuyến. Âm mưu xảo quyệt của chúng là đánh vào các cơ sở trọng điểm, trong đó đặc biệt là các nhà máy điện, trạm điện…
Đối với tỉnh Quảng Ninh, mục tiêu quan trọng của địch là Nhà máy điện Cột 5, trạm 110kV Mông Dương mới được xây dựng, các tuyến đường dây điện cao thế…Giặc Mỹ cho máy bay đủ các loại bắn phá ngày đêm tại nhà máy, hàng trăm tấn bom đạn được rải xuống trên một diện tích rất nhỏ hẹp, đã làm hư hại một số thiết bị máy móc như: lò hơi, hệ thống bảng điều khiển, đường dây, trạm điện, một số CBCN đã anh dũng hy sinh vì sự nghiệp giữ vững dòng điện. Với khẩu hiệu “Địch đến ta đánh, địch đi ta lại sản xuất”. Trong mưa bom, bão đạn của kẻ thù, CBCNV Nhà máy điện Cột 5 vẫn bám máy, bám lò giữ vững dòng điện thân yêu, điện Cột 5 vẫn tỏa sáng trên các bến cảng, hầm mỏ Quảng Ninh.
Nhà máy điện Cột 5 sau những trận ném bom ác liệt của đế quốc Mỹ vẫn hiên ngang bên bờ Vịnh Hạ Long
Với khẩu hiệu “Địch đến ta đánh, địch đi ta lại sản xuất” Sau những trận đánh phá ác liệt của giặc Mỹ, những người công nhân Nhà máy điện Hòn Gai lại sẵn sàng sửa chữa phục hồi sản xuất
Những người công nhân điện Hòn Gai đang phối hợp với các chiến sỹ Công an cứu hỏa dập lửa khu vực trung tâm điều khiển nhà máy sau trận đánh ác liệt của máy bay Mỹ ngày 9/5/1972
Thời kỳ này, Nhà máy đã lớn mạnh về mọi mặt, tổng số CBCNV lên tới hơn 500 người bao gồm: 5 phân xưởng, 1 đội, 2 chi nhánh và 4 phòng nghiệp vụ. Số lượng đảng viên lên tới gần 100 đồng chí, là Đảng bộ trực thuộc Đảng bộ thị xã Hòn Gai. Lực lượng tự vệ được biên chế thành 1 tiểu đoàn, đặc biệt có 1 đại đội vừa sản xuất vừa trực chiến tại đồi pháp C5. Nhiều CBCN tiêu biểu cho ý chí quyết chiến quyết thắng và sự hy sinh dũng cảm trong sản xuất như liệt sỹ Võ Quốc Quyền - Giám đốc nhà máy cùng với 18 đồng chí là CBCNV của Nhà máy đã ngã xuống để bảo vệ dòng điện được an toàn.
Đến năm 1972, giặc Mỹ lại điên cuồng đánh phá miền Bắc XHCN với quy mô lớn hơn, đặc biệt chúng đã ném bom B52 vào thành phố Hải Phòng và Thủ đô Hà Nội. Nhà máy điện Hòn Gai lại trở thành một mục tiêu đánh phá ác liệt của kẻ thù, bằng nhiều thủ đoạn cả ngày lẫn đêm, với nhiều loại vũ khí tối tân như bom 500kg, bom tinh khôn, bom bi…Đặc biệt, trận đánh bom ngày 09/5/1972 và trận ngày 12/9/1972 Nhà máy gần như bị phá hỏng hoàn toàn. Đầu năm 1973, Bộ Điện than và Công ty Điện lực miền Bắc đã cho giải thể nhiệm vụ của Nhà máy và chuyển thành Sở quản lý Điện Quảng Ninh. Từ đây chính thức nhiệm vụ của những người công nhân Nhà máy điện Cột 5 bước sang một giai đoạn phát triển mới.
Gấp lại những trang hồi ký, ông Hạ đưa cho tôi xem những bức ảnh chụp Đội bảo vệ vũ trang Nhà máy từ năm 1957, ông chỉ vào tấm hình và nói: Trong bức ảnh này còn có 1 mình tôi là còn sống. Ông còn giữ lại danh sách các liệt sỹ đã hy sinh trong 2 trận bom ném xuống Nhà máy, những kỷ vật ông cho rằng đó là quý giá nhất đối với đồng đội, đồng nghiệp của ông.
Ngọc Lan - Xuân Thao