Tác giả Xuân Phong
Tác giả Xuân Phong

Gần hết kỳ học đầu tiên tại Phân viện Báo chí & Tuyên truyền (nay là Học viện Báo chí & Tuyên truyền), tôi không dám đặt bút viết dù là một tin, bài đơn giản. Trong khi đó, một số sinh viên học cùng lớp như Đỗ Doãn Hoàng, Phạm Ngọc Chuẩn, Phan Ngọc Chính… đã mạnh dạn viết và được đăng trên một số báo.

Khi đó, tôi như người vừa được “thức tỉnh”: Tại sao mình không viết, trong lúc tiền… cháy túi; trong khi đứa con trai đầu mới 8 tháng tuổi?

Vậy là viết!

Hai “đứa con tinh thần” của tôi ra đời cùng lúc mà lại được đăng hẳn trên báo lớn là Nhân dân và Quân đội Nhân dân!

Thật là niềm vui khôn xiết. Bài đăng trên báo Nhân dân, tôi viết (800 chữ), có nhan đề “Chợ họp ở đường 5”.

Bài đăng trên Báo Quân đội Nhân dân (800 chữ) có nhan đề “Đói nước đến bao giờ?” - đã để lại một dấu ấn khó phai. Bài viết về tình trạng thiếu nước trầm trọng, diễn ra nhiều năm liền ở khu tập thể Bắc Nghĩa Tân (Cầu Giấy - Hà Nội); sự thiếu trách nhiệm của Ban quản lý; người dân cứ đêm đêm phải dòng điện, dòng dây và bơm, chen chúc nhau lấy nước ở bể lớn, gia đình nào ờ gần thì chừng 50 mét tính theo đường dây dòng, ai ở xa tới vài trăm mét, rồi những cuộc cãi vã, chửi bới nhau diễn ra luôn luôn.   

Hai ngày sau khi bài báo đăng, đại diện Bộ Quốc phòng, Ban quản lý đã họp cấp tốc với đại diện thị trấn Nghĩa Tân (nay là phường Nghĩa Tân), tổ dân phố, nhằm giải quyết tình trạng trên. Cán bộ Ban quản lý có ý tìm “thủ phạm” viết bài báo đó.

Tôi nói với bà con trong tổ dân phố: “Bài tôi viết hoàn toàn là sự thật, vì vậy không có điều gì phải băn khoăn”.  

Mọi người thì bảo, nếu họ (Ban quản lý) có ý gây khó dễ, bà con cùng họp nhau lại, lên tiếng về tinh thần thiếu trách nhiệm của Ban quản lý, bảo vệ tác giả đến cùng!

Như được tiếp thêm niềm tin và sức mạnh, tôi lao vào viết và… khỏe dần qua năm tháng. Có thể nói, suốt hơn 4 năm sinh viên, tôi viết được hàng trăm bài báo, thời gian đầu, viết cho một số báo nhuận bút thấp; về sau viết cho những tờ báo lớn, nhuận bút khá như Đại đoàn kết, Nhân dân, Tiền phong, Công an Nhân dân, Đài Tiếng nói Việt Nam...

Riêng Báo Hà Nội mới, tôi duy trì cộng tác trong suốt hơn 10 năm. Và tại báo này, tôi nhận nhiều giải thưởng trong các cuộc thi viết. Đặc biệt, tham gia cuộc thi viết “Nét đẹp người Thủ đô” lần thứ nhất (2011), tôi vinh dự nhận 1 giải Nhì, 1 giải Khuyến khích và nhận Bằng khen của Chủ tịch UBND TP. Hà Nội…

Nhận giải C - cuộc thi báo chí toàn quốc 1000 năm Thăng Long 2010
Nhận giải C - cuộc thi báo chí toàn quốc 1000 năm Thăng Long 2010.

Hồi sinh viên năm thứ 3, Phân viện Báo chí & Tuyên truyền, chúng tôi đã được nhà trường cho đi thực tập lần đầu. Tôi đăng ký thực tập tại Báo Hà Nội mới.

Suốt quãng thời gian thực tập (3 tuần), báo chỉ cấp duy nhất 1 giấy giới thiệu “Phóng viên tập sự”. Sau kỳ thực tập, tôi đã có được 4 bài đăng trên báo này, vượt kế hoạch giao 1 bài. Trong đó, có một kỷ niệm đáng nhớ.

Cầm giấy giới thiệu “Phóng viên tập sự” trong tay, tôi thấy mình kiêu hãnh làm sao! Tự nhiên, chợt nhớ ra một điều, rằng mình có người bạn thân là Nguyễn Thái Sơn, cùng sống với nhau bên Tiệp Khắc (nay là Cộng hòa Séc), về ở tận Mai Châu (Hòa Bình), thử làm một chuyến lên đó…

Rủ được Phạm Ngọc Chuẩn, khi đó đang thực tập tại Báo Tiền phong (hiện là PV Báo Thái Nguyên), với Nguyễn Văn Tuấn, bạn ở cùng bên Tiệp Khắc, chúng tôi làm cuộc hành trình ngược Mai Châu.

Cách Hà Nội chừng 150 km, đường lên Mai Châu ngoằn ngoèo, leo đồi, núi cao.

Sớm tinh mơ, từ Hà Nội, chúng tôi đi bằng 2 chiếc xe máy cà tàng, phải mất hơn 6 tiếng đồng hồ mới tới thị trấn Mai Châu.

Tới nơi, hỏi Sơn “bò to” (đang là cán bộ Phòng Thuế huyện Mai Châu) thì được biết, cậu ấy đang ở “đảo… Robinson” - bản Phúc (xã Phúc Sạn, Mai Châu).

Lúc này, đã hơn 11 giờ trưa. Ba chúng tôi, ai nấy mệt nhoài, bụng đói, nhưng vì cái tên “đảo… Robinson” lôi cuốn, tôi cố thuyết phục họ bằng được cùng tới đó.

Đứng dưới lưng chừng núi (đoạn Quốc lộ 6 cũ) nhìn xuống lòng hồ Phúc, thấy sâu hun hút, chóng mặt.

Được biết, trước năm 1987, lòng hồ là bản của bà con người Mường, khi trở thành hồ chứa nước Thủy điện Hòa Bình, thì bà con phải bươn lên sinh sống trên triền núi cao bên kia hồ.

Trận mưa lúc sớm chưa kịp ráo nước, để lại những đám ướt lấp lóa tựa những mảnh gương soi - suốt lối mòn nhỏ xíu dốc từ đường chính xuống tới mặt hồ, dài hơn trăm mét. Nếu đứng ở bất kỳ một điểm nào trông xuống, cũng không thấy mặt hồ. Bởi lẽ, lòng hồ là vực thẳm sâu…

Dò dẫm theo lối mòn xuống lòng hồ, chúng tôi phát hoảng. Tay túm chặt gốc cây hoang, chân trần bấm chắc vào khe đá, vẫn cứ lo bị tụt. Mãi rồi cũng xuống tới mặt nước.

Một cái hồ hình lòng chảo khá rộng, nhìn sang bờ bên kia, chỉ thấy những vệt mờ. Chờ độ mươi phút đồng hồ, thì gặp đò máy.

Cán bộ huyện Mai Châu đi cùng nói vui: “Các anh được ưu tiên. Thường thì khách phải đợi cỡ nửa tiếng mới có đò”.

Ngồi đò máy chừng 15 phút, tôi hỏi chú xế: - Mình sắp tới chưa?

- Còn bằng ấy thời gian nữa là tới, chú xế không ngoái đầu lại, nói.

Tôi chợt rùng mình. Con đò nhỏ nhoi “ít” sức ngựa chở chúng tôi, đang chơi vơi giữa lòng hồ. Nghe nói cái lòng chảo này sâu tợn, nước ngập tới lưng chừng núi.

Ngước nhìn sang phía bên kia bờ: Vách núi dựng đứng, cây cối um tùm che chắn hết cả lối đi. Xa hơn, cao hơn, thấp thoáng bóng nhà sàn.

Đò tiến dần tới bờ, rồi mọi người bám vào một lối mòn!

- Lại một lối mòn nhỏ xíu! Tôi thốt lên.

Chú xế bảo:

- Lối mòn này, dài gấp mấy lần lối mòn các anh đã xuống dốc bên kia hồ!

Thế rồi leo - bò đến bủn rủn chân tay, tóc gáy dựng đứng.

Anh bạn nói giọng hài hước:

- “Leo” bản, cứ như ra đảo… Robinson!

Đường dân sinh vất vả là vậy.

Mà đường dân sinh, thì nó là “cái cột sống” đối với bà con dân bản.

Chưa hết, đời sống của bà con người Mường ở lưng chừng núi gặp vô vàn khó khăn, thiếu thốn đủ bề bởi ruộng không có, chỉ trông vào cây sắn, cây muồng. Nguồn nước chỉ nhỏ giọt, chẳng khác nào “nước mắm nhỉ”. Việc học hành của con trẻ, thật là điều đáng buồn…

Sau chuyến đi đó, tôi viết bài báo dài “Nỗi niềm người dân bản Phúc” - đăng trên tờ báo lớn, nơi tôi đang thực tập, được đánh giá cao…

Trở lại trường học tập, trong lòng tôi “khát” được đi thực tế để tiếp tục viết bài. Nhưng đi đâu, làm gì?

Không có giấy giới thiệu, thì khó lắm. Tôi nói với Phan Ngọc Chính: “Cứ dùng đại cái giấy giới thiệu “Phóng viên tập sự” ở Báo Hà Nội mới lúc trước.

Hai anh em đi công tác, nhờ vào cái “bùa” đó.

Chúng tôi đi thực tế Đông Anh (Hà Nội), nơi có nhiều đơn vị, doanh nghiệp.

Có mặt ở địa phương, hễ thấy chỗ nào có tên doanh nghiệp hay cơ quan, thì chúng tôi đều mạnh dạn “xin vào làm việc”. Nhưng khổ nỗi, giấy giới thiệu “PV tập sự” kia, bị “soi” ngày, tháng, năm…

Thành thử, có không ít đơn vị từ chối bằng đủ lý do; cũng có đơn vị “dẫu soi mà vẫn tiếp”.

Đi hết buổi sáng, tới giờ ăn trưa, mua đôi chiếc bánh mỳ “không người lái” ăn tạm cho đỡ đói rồi tìm bãi có cây xanh nằm nghỉ, chiều lại xông pha.

Chuyến đi để lại nhiều áy láy, nhưng lại thành công. Đó là việc tôi đã hoàn thành các bài báo (những nơi tiếp đón), đăng trên một số báo, có gửi báo biếu đơn vị - điều đó để chứng tỏ mình không thất tín và bởi một phần say nghiệp - có nhuận bút - vô cùng cần thiết đối với tôi khi đó.

Trò chuyện cùng Thượng tướng Nguyễn Huy Hiệu
Trò chuyện cùng Thượng tướng Nguyễn Huy Hiệu

Vừa ra trường (tháng 08/1998), mới “chân ướt chân ráo” đã được nhận vào làm tại Báo Lao động & Xã hội - đó là niềm hạnh phúc rất lớn đối với tôi.

Mồng 4 Tết 1999, có mặt tại Tòa soạn, anh Phí Văn Chiến - Trưởng ban Thời sự bảo tôi: “Cậu đi công tác Bắc Giang ngay, viết về Chương trình phủ xanh đất trống đồi trọc (Chương trình 327)”.

Không chậm trễ, tôi lên đường ngay buổi sáng, tới huyện Yên Dũng, một trong những nơi phát triển mạnh nghề rừng của Bắc Giang.

Trời rét căm căm, lại mưa phùn. Giữa đường, lạnh quá, tôi phải khoác thêm chiếc áo mưa quân đội.

Tới cầu Bắc Giang, tôi chẳng may đi vào đường 1 chiều. Cán bộ công an tuýt còi, đề nghị dừng xe.

Tôi kéo áo mưa, miệng nói không ra hơi: “Mong anh thông cảm, trời rét quá, tôi trùm kín nên nhìn không rõ”.

Có lẽ, bộ dạng tôi khi đó “ốm” quá nên cán bộ công an mới nói nhỏ nhẹ: “Lần sau, anh đi đường, nhớ chú ý quan sát cho kỹ”.

Có mặt tại trụ sở UBND huyện Yên Dũng, tôi xin được vào gặp lãnh đạo…

Và câu đầu tiên Phó chủ tịch UBND huyện dành cho tôi: “Sao Phóng viên báo đã đi công tác sớm thế?”!

Tròn 2 ngày, tôi tiếp cận với cán bộ UBND huyện, Phòng Nông nghiệp, Phòng Lao động - Thương binh và Xã hội, Hạt Kiểm lâm… Về, hoàn thành bài báo “Xanh mãi Nham Biền” - được Ban Biên tập khen ngợi.

Một lần (1999) anh Xuân Ba (khi đó phụ trách trang phóng sự Báo Tiền phong) bảo tôi:   

- Xuân Phong đi Bắc Giang, viết về cây vải thiều tự nhiên chết rũ.

- Nhưng bên báo em không cử đi, sợ về bài viết không được đăng?

-  Chú mày cứ xin giấy giới thiệu “Lao Xã” đi công tác Bắc Giang, anh sẽ đăng trên Báo Tiền phong!

Như được mở cờ trong bụng, không chần chừ, ngay sáng hôm sau, tôi lên đường. Chuyến công tác thật vô cùng vất vả.  

Tại huyện Lục Ngạn, nơi có số cây vải “ngoẻo” nhiều nhất/tổng số hơn 6.000 cây chết rũ cả tỉnh, tôi phải tiếp cận cả bên Đảng ủy, UBND, Phòng Nông nghiệp, Phòng Lao động - Thương binh và Xã hội; sang các huyện Lục Nam, Yên Thế cũng vậy. Lại về làm việc với cán bộ Sở Nông nghiệp, Sở Lao động - Thương binh và Xã hội, Chi cục Bảo vệ thực vật…  

Khi thông tin chưa thực sự tin cậy, Giám đốc Sở Nông nghiệp và Chi cục trưởng Chi cục Bảo vệ thực vật đều khuyên tôi: “Phóng viên nên tới Viện Bảo vệ thực vật (Hà Nội), gặp các giáo sư để tìm hiểu thêm cho kỹ lưỡng…”.

Vậy là, điều tra về cây vải tự nhiên chết rũ, tôi đã phải chóng mặt, đi không biết bao nhiêu cơ quan, tới nhiều nơi mới giúp làm sáng tỏ.

Về nhà, sau mấy đêm vắt óc suy nghĩ, tôi mới bắt tay vào viết - hoàn thành bài báo dài “Phương thuốc nào cho cây vải Bắc Giang - tự nhiên chết rũ?”, đăng trên Báo Tiền phong…  

Nhận giải Nhì, giải Khuyến khích và Bằng khen của Chủ tịch UBND TP. Hà Nội cuộc thi viết “Nét đẹp người Thủ đô” lần thứ nhất 2011 (tác giả XP hàng sau, thứ 3 từ phải sang)
Nhận giải Nhì, giải Khuyến khích và Bằng khen của Chủ tịch UBND TP. Hà Nội cuộc thi viết “Nét đẹp người Thủ đô” lần thứ nhất 2011 (tác giả Xuân Phong hàng sau, thứ 3 từ phải sang)

Nghiệp báo là vậy. Nhà báo, phóng viên phải đi nhiều, tiếp xúc nhiều… thì mới có thể đúc rút cho mình những kinh nghiệm, phương thức ứng xử hay và mới có thể cầm bút viết lên những bài báo - mà mình cho là tâm đắc.

Nghề báo - đòi hỏi kiến thức rộng, càng am hiểu nhiều lĩnh vực càng tốt. Đương nhiên, người “yêu nghề báo” - ngoài những phẩm chất về chuyên môn, nghiệp vụ, đạo đức nghề nghiệp, còn đòi hỏi phải có bản lĩnh, sự đam mê và lấy thực tiễn - coi thực tiễn là “cây đời mãi mãi xanh tươi”!

Đối với một người làm báo, đương nhiên phải học tập lý luận, trau dồi nghiệp vụ và rèn luyện đạo đức một cách toàn diện; song nắm bắt thực tiễn là một vấn đề hết sức quan trọng.

Học lý luận, không bao giờ là đủ. Song, dù trình độ lý luận đến đâu mà không đi sát cuộc sống, không hằng ngày, hằng giờ quan sát thực tiễn và suy nghĩ những gì đang diễn ra trong thực tiễn, góp một tiếng nói vào sự giải quyết các vấn đề thời sự nóng bỏng trong thời cuộc, thì không thể có những đề tài hay, càng không thể có những bài báo hay được.

Cuộc sống - tức là thực tiễn - là gốc mà hoa trái là các bài báo. Không có gốc tốt, không thể có hoa thơm trái ngọt. Không có thực tiễn thì không thể có bài báo hay.

Thực tiễn là gốc của lý luận, là nguồn cảm hứng muôn đời của thi nhân, văn nghệ sỹ, là tiêu chuẩn của chân lý và cũng là nguồn vô tận của báo chí. Vốn thực tiễn cùng với lý luận - là tài sản vô giá của người làm báo.

Đời người, ai mà chả có ít nhiều kỷ niệm. Kỷ niệm gia đình, kỷ niệm học trò, kỷ niệm bạn bè, kỷ niệm quê hương… Chỉ riêng chuyện “nghề gì mùi gì” cũng ngồn ngộn biết bao kỷ niệm... Nghề báo chúng tôi - là những chuyến đi rong ruổi trên khắp mọi vùng, miền, đến với thực tiễn - cây đời,  khao khát làm sao viết được những bài báo hay, xúc tích và có hồn.

Ký sự của Xuân Phong