Phát biểu tại Diễn đàn Kinh tế Việt Nam 2025 – triển vọng 2026, ông Nguyễn Đức Hiển, Phó Trưởng Ban Chính sách, chiến lược Trung ương, cho biết để duy trì mức tăng trưởng GDP khoảng 10% mỗi năm, nền kinh tế cần một lượng vốn đầu tư phát triển rất lớn. Tuy nhiên, cấu trúc huy động vốn hiện nay đang bộc lộ nhiều rủi ro khi tín dụng ngân hàng vẫn chiếm tới gần một nửa tổng vốn đầu tư xã hội.

Ông Nguyễn Đức Hiển, Phó Trưởng Ban Chính sách, chiến lược Trung ương.
Ông Nguyễn Đức Hiển, Phó Trưởng Ban Chính sách, chiến lược Trung ương.

Nếu xu hướng này kéo dài, tỷ lệ dư nợ tín dụng trên GDP có thể tăng mạnh lên mức rất cao, tạo áp lực lớn lên hệ thống tài chính và làm gia tăng rủi ro vĩ mô. Do đó, vấn đề cốt lõi không còn nằm ở việc mở rộng “room” tín dụng, mà là chuyển dịch mạnh mẽ sang các kênh vốn trung và dài hạn.

Theo ông Hiển, một trong những hướng đi chiến lược là nâng hạng tín nhiệm quốc gia lên mức “đầu tư”, qua đó thu hút dòng vốn quốc tế có chi phí thấp và ổn định hơn. Cùng với đó, thị trường vốn trong nước cần được thúc đẩy phát triển thực chất, thông qua mở rộng phát hành trái phiếu doanh nghiệp, đẩy mạnh cổ phần hóa, IPO, đặc biệt với các doanh nghiệp công nghệ, dịch vụ và đổi mới sáng tạo.

Bên cạnh thị trường chứng khoán, vai trò của các quỹ đầu tư dài hạn cũng cần được nhìn nhận lại. Việc hình thành và phát triển các quỹ hưu trí tự nguyện, quỹ hạ tầng, quỹ đầu tư mạo hiểm được xem là giải pháp quan trọng để bổ sung nguồn lực cho tăng trưởng, giảm phụ thuộc vào tín dụng ngân hàng.

Tuy nhiên, theo đại diện Ban Chính sách, chiến lược Trung ương, vốn chỉ là điều kiện cần. Yếu tố quyết định nằm ở hiệu quả sử dụng vốn. Để đạt tăng trưởng cao với tỷ lệ đầu tư khoảng 40% GDP, năng suất nhân tố tổng hợp (TFP) phải đóng góp trên 57% vào tăng trưởng – mức cao hơn đáng kể so với giai đoạn trước. Điều này đòi hỏi khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số phải trở thành động lực trung tâm.

Muốn vậy, cần mạnh dạn tháo gỡ các rào cản về cơ chế tài chính cho khoa học công nghệ, chấp nhận rủi ro trong nghiên cứu – phát triển, mở rộng mô hình hợp tác công – tư trong R&D. Đồng thời, cải cách thể chế phải đi trước một bước, từ liên thông dữ liệu đất đai, thuế, đầu tư đến xử lý dứt điểm các dự án chậm triển khai để giải phóng nguồn lực đang bị “đóng băng”.

Trong bối cảnh các mô hình kinh tế mới đang hình thành, Việt Nam cũng được khuyến nghị sớm xây dựng khuôn khổ cho kinh tế số thế hệ mới, kinh tế xanh, kinh tế không gian ngầm và các lĩnh vực tiềm năng khác. Chỉ khi nguồn lực được giải phóng và thể chế thực sự thông thoáng, mục tiêu tăng trưởng hai con số mới có cơ sở vững chắc để hiện thực hóa.

Nam Sơn (t/h)