Những con số ấn tượng

Theo số liệu thống kê của Bộ Tài chính, kinh tế tập thể, với nòng cốt là hợp tác xã (HTX), đã có bước tăng trưởng ấn tượng trong năm 2025. Dữ liệu tổng hợp đến cuối 2025, cả nước ghi nhận 35.041 HTX, tăng 8.929 HTX so với năm 2020, tương đương mức tăng 34,2%. 

Số thành viên HTX đạt gần 6 triệu người, phản ánh xu hướng người dân và doanh nghiệp nhỏ quay lại lựa chọn mô hình HTX như một cơ chế hợp tác an toàn và hiệu quả. Đồng thời, cả nước có 164 liên hiệp HTX, 65.900 tổ hợp tác đang tiếp tục đóng vai trò quan trọng trong phát triển cộng đồng.

Chất lượng HTX được cải thiện mạnh mẽ khi doanh thu bình quân đạt 4,562 tỷ đồng/HTX, tăng 4% so với năm 2020; lợi nhuận bình quân tăng lên 421 triệu đồng/HTX, cao hơn 107 triệu đồng so với giai đoạn trước. Thu nhập lao động thường xuyên trong HTX tăng từ 51,3 triệu đồng lên 64 triệu đồng/năm, mức tăng 24,8%, cho thấy tính hấp dẫn rõ rệt của mô hình kinh tế hợp tác. Chất lượng quản trị HTX cũng được nâng lên khi có tới 27.375 HTX xếp loại tốt và khá, chiếm 78,1% tổng số HTX cả nước.

Song song với đó, 2.600 HTX đã ứng dụng công nghệ cao, 4.700 HTX tham gia liên kết chuỗi giá trị theo Nghị định 98/2018/NĐ-CP, cho thấy mô hình kinh tế hợp tác đang dịch chuyển từ sản xuất truyền thống sang sản xuất tiêu chuẩn hóa, kết nối chặt chẽ với thị trường.

Ảnh minh họa
Ảnh minh họa

Trong bối cảnh ấy, liên kết giữa HTX và doanh nghiệp tiếp tục là “mạch máu” quan trọng của toàn hệ thống. Giai đoạn 2018-2025 đã có 2.938 dự án liên kết được phê duyệt; trong đó 2.331 dự án do HTX chủ trì và 607 dự án do doanh nghiệp chủ trì. Hơn 211.545 hộ nông dân, 2.412 HTX và 1.305 doanh nghiệp đã tham gia chuỗi liên kết nông nghiệp theo các mô hình bao tiêu, tổ chức sản xuất theo tiêu chuẩn và liên kết chế biến, xuất khẩu.

Sản phẩm trồng trọt chiếm tỷ trọng lớn nhất với 1.969 dự án, tương đương 67%, tiếp theo là chăn nuôi với 23,7% và thủy sản với 2,5%. Việc các lĩnh vực này được ưu tiên cho thấy HTX và doanh nghiệp đang hướng vào phân khúc có khả năng tạo giá trị gia tăng cao, có lợi thế xuất khẩu và phù hợp với các tiêu chuẩn quốc tế về vệ sinh, an toàn thực phẩm và truy xuất nguồn gốc.

Tác động của liên kết HTX và doanh nghiệp thể hiện rất rõ trong cơ cấu tổ chức sản xuất. Doanh nghiệp thường cung cấp giống, phân bón, vật tư đầu vào theo giá ưu đãi; HTX tổ chức sản xuất đồng nhất theo quy trình; còn doanh nghiệp bao tiêu đầu ra với mức giá thị trường cộng biên độ. Đổi lại, doanh nghiệp yêu cầu HTX áp dụng các tiêu chuẩn VietGAP, GlobalGAP, ASC… giúp HTX nâng cao chất lượng sản phẩm, minh bạch hóa quy trình và dễ dàng hơn khi tiếp cận thị trường cao cấp.

Ngân sách nhà nước giai đoạn 2018-2025 dành 3.186 tỷ đồng hỗ trợ liên kết, chiếm 20,9% tổng vốn; phần còn lại 79,1% là vốn đối ứng từ doanh nghiệp, HTX và người dân. Điều này khẳng định chính sách của Nhà nước đóng vai trò “vốn mồi” quan trọng để kích hoạt nguồn lực xã hội đầu tư vào nông nghiệp.

Nhiều giải pháp thiết thực

Thực tiễn tại nhiều địa phương cho thấy, ở đâu chính quyền chủ động kết nối, doanh nghiệp sẵn sàng đồng hành và HTX làm tốt vai trò tổ chức sản xuất, ở đó các mô hình liên kết hình thành mạnh mẽ và tạo ra giá trị rõ rệt cho cả ba phía. 

Các tỉnh đã phê duyệt 1.738 mô hình liên kết cho các sản phẩm chủ lực quốc gia và hơn 1.200 chuỗi đối với sản phẩm đặc thù địa phương, hình thành nền tảng quan trọng giúp doanh nghiệp yên tâm đầu tư, HTX có đầu ra ổn định và người dân nâng cao thu nhập. 

Từ liên kết giữa doanh nghiệp phân bón, thuốc bảo vệ thực vật với HTX để chuyển giao kỹ thuật và ứng dụng nông nghiệp thông minh; đến mô hình Tổng công ty Lương thực Miền Nam hợp tác với 6 HTX trong sản xuất, tiêu thụ lúa; hay các HTX thủy nông tại Tuyên Quang, Thái Nguyên ký hợp đồng tưới tiêu ổn định với doanh nghiệp…, tất cả cho thấy mô hình liên kết đang vận hành thực chất. 

Từ thực tiễn triển khai nhiều năm qua, Bộ Nông nghiệp và Môi trường đề xuất ba nhóm giải pháp lớn để thúc đẩy sự liên kết hiệu quả giữa HTX và doanh nghiệp:

Thứ nhất, sửa đổi Nghị định 98/2018/NĐ-CP theo hướng đơn giản hóa thủ tục, phân cấp mạnh cho địa phương; bổ sung chính sách phát triển vùng nguyên liệu chuẩn, chuỗi giá trị xanh - số; và thể chế hóa cơ chế chia sẻ rủi ro, lợi ích giữa doanh nghiệp - hợp tác xã - nông dân. Cơ chế khuyến khích các tác nhân trung gian như thương lái hay tổ dịch vụ nông nghiệp tham gia chuỗi một cách minh bạch cũng được nêu rõ.

Thứ hai, xây dựng Chương trình đào tạo nông dân và nhân lực HTX hiện đại, tập trung vào nông dân số, giám đốc hợp tác xã, cán bộ kỹ thuật và cán bộ quản lý chuỗi giá trị. Mục tiêu là hình thành lực lượng lao động nông nghiệp có tri thức, làm chủ công nghệ và tư duy thị trường.

Thứ ba, nhân rộng mô hình vùng nguyên liệu đạt chuẩn trên phạm vi cả nước, dựa trên kinh nghiệm của Đề án Một triệu héc-ta lúa. Thứ trưởng đề nghị triển khai theo hướng đồng bộ, bài bản và có cơ chế giám sát chặt chẽ.

Nông nghiệp Việt Nam đang đứng trước một thời cơ lớn. Nếu kiên định con đường phát triển chuỗi giá trị xanh - số - hiện đại, phát huy vai trò của HTX và doanh nghiệp, đồng thời đưa nông dân trở thành lực lượng sản xuất chuyên nghiệp, nông nghiệp Việt Nam hoàn toàn có thể bứt phá, nâng cao thu nhập cho người dân và khẳng định vị thế trên thị trường quốc tế.

An Nhiên