Các bị cáo tại phiên tòa
Các bị cáo gồm: Nguyễn Xuân Phú (SN 1981, trú phường Hòa Khê, quận Thanh Khê, TP. Đà Nẵng), Tôn Nữ Thanh Thảo (SN 1984, trú TP. Huế, Thừa Thiên-Huế), Lê Thị Quỳnh Trang (SN 1988, trú phường Hòa Khê, quận Thanh Khê, TP. Đà Nẵng) và Bùi Văn Tĩnh (SN 1989, trú Kim Thành, tỉnh Hải Dương).
Theo nội dung vụ án, Nhà máy sữa Đà Nẵng là đơn vị hoạt động theo ủy quyền của Công ty CP sữa Việt Nam. Ngày 1/4/2015, ông Võ Ngọc Sinh (SN 1961, tỉnh Bình Định), được bổ nhiệm giữ chức vụ Giám đốc Nhà máy sữa Đà Nẵng.
Để phục vụ sản xuất, từ 22/9/2015, ông Sinh ký kết hợp đồng mua bán dầu diesel với công ty CP Dầu khí Quang Minh, tỉnh Hải Dương do Bùi Văn Tĩnh làm giám đốc. Hợp đồng mua bán với nội dung, công ty Quang Minh cung cấp dầu diesel và dầu mỡ phụ các loại cho Nhà máy sữa Đà Nẵng.
Hình thức thực hiện, Nhà máy sữa ở Đà Nẵng sẽ gửi các đơn đặt hàng ít nhất 3 ngày cho công ty Quang Minh bằng fax hoặc thư điện tử, trong đó thể hiện chi tiết số lượng, lịch biểu và địa điểm giao hàng cụ thể. Đơn giá là giá thị trường do Bộ Tài chính công bố. Hình thức thanh toán là bên mua chuyển khoản vào thứ Tư hàng tuần khi có phát sinh giao dịch và nhận đầy đủ hóa đơn, giấy chứng nhận lô hàng từ bên bán.
Để có dầu diesel cung cấp cho Nhà máy sữa Đà Nẵng và bán cho các công ty, cá nhân khác, công ty Quang Minh ký kết hợp đồng mua bán xăng dầu từng năm với công ty TNHH Thuơng mại và Dịch vụ tổng hợp Hòa Khánh, quận Thanh Khê, TP. Đà Nẵng.
Sau khi ký kết và thực hiện hợp đồng được khoảng 4 tháng, ông Sinh trao đổi và thống nhất với Bùi Văn Tĩnh về việc công ty Quang Minh xuất hóa đơn GTGT khống bán dầu diesel cho Nhà máy sữa Đà Nẵng. Sau khi nhận được tiền hàng đối với các hóa đơn này, công ty Quang Minh sẽ rút ra và chuyển lại vào các tài khoản do ông Sinh chỉ định.
Ông Võ Ngọc Sinh chỉ đạo Nguyễn Xuân Phú, Trưởng Ban kế toán và các nhân viên thủ kho vật tư kỹ thuật là Tôn Nữ Thanh Thảo, Lê Thị Quỳnh Trang liên hệ với Tĩnh thông báo số lượng dầu diesel cần nhập khống, lấy hóa đơn GTGT, thực hiện hợp thức các hóa đơn khống để chiếm đoạt tiền của Công ty CP sữa Việt Nam.
Khi có nhu cầu lấy hóa đơn khống, Thảo hoặc Trang gọi điện gặp Tĩnh thông báo số lượng dầu cần nhập khống. Sau đó, bộ phận kế toán của công ty Quang Minh sẽ gởi các bản scan hóa đơn GTGT khống qua email cho Thảo hoặc Trang.
Hai người này chuyển bản scan hóa đơn GTGT này cho bà Nguyễn Thị Thanh Hà, nhân viên kế toán thống kê Nhà máy Sữa Đà Nẵng làm phiếu nhập kho chuyển cho Thảo hoặc Trang ký và chuyển cho ông Sinh ký xác nhận. Sau khi có đủ chữ ký, nhân viên kế toán thống kê làm phiếu đề nghị thanh toán trình Phú duyệt và chuyển cho ông Sinh ký để thanh toán tiền cho công ty Quang Minh.
Khoảng cuối tháng 3/2016 và tháng 4/2016, qua quá trình làm phiếu nhập kho, bà Hà kiểm kê và phát hiện số lượng dầu xuất kho không có chứng từ nên báo cáo Phú. Phú giải thích, do số lượng dầu xuất qua tài khoản trung gian nhằm giảm lượng dầu theo yêu cầu của chương trình phát triển bền vững của công ty.
Phú yêu cầu bà Hà đưa lượng dầu này vào phiếu xuất kho điều chỉnh cuối tháng với nội dung điều chỉnh hàng tồn kho sau kiểm kê chờ xử lý hoặc điều chỉnh hàng tồn kho do hao hụt bồi thường chờ xử lý và trình ông Sinh duyệt. Sau đó, Phú thực hiện bút toán các khoản chi phí này vào chi phí sản xuất báo cáo lên hệ thống kế toán của công ty theo quy định.
Ngày 5/4/2018, ông Sinh chết do bệnh. Ông này có nợ tiền bà Võ Kim C. 1,7 tỷ đồng, lãi suất 1,5% tháng. Số tiền vay được chuyển vào tài khoản cá nhân Phú. Phú chỉ đạo Thảo tiếp tục thực hiện việc nhập khống dầu và hợp thức hóa đơn nhập khống để lấy tiền trả nợ thay cho Sinh. Thảo tiếp tục liên hệ Tĩnh lấy hóa đơn GTGT nhập khống dầu để chiếm đoạt tiền. Để hợp thức hóa việc xuất khống hóa đơn GTGT theo yêu cầu của Sinh, Tĩnh lấy dầu bán cho một số cá nhân lấy hóa đơn để cân đối với lượng dầu xuất khống.
Cơ quan điều tra xác định, từ tháng 3/2016 đến tháng 7/2018, công ty Quang Minh xuất khống cho Nhà máy sữa ở Đà Nẵng 55 hóa đơn với số lượng dầu xuất khống 692 nghìn lít.
Tổng số tiền Công ty CP sữa Việt Nam thanh toán cho các hóa đơn này và bị chiếm đoạt là 9.547.876.000 đồng. Trong đó, Tĩnh chuyển vào tài khoản Phú hơn 8,5 tỷ đồng và giữ lại hơn 1 tỷ đồng. Nguyễn Xuân Phú, Bùi Văn Tĩnh tham gia trong suốt quá trình thực hiện hành vi phạm tội, chiếm đoạt số tiền hơn 9,5 tỷ đồng.
Tôn Nữ Thanh Thảo, tham gia từ giai đoạn từ tháng 3/2016 đến ngày 2/10/2017 và giai đoạn từ tháng 4/2018 đến tháng 7/2018, chiếm đoạt tổng số tiền hơn 5,6 tỷ đồng. Lê Thị Quỳnh Trang tham gia giai đoạn từ ngày 10/10/2017 đến tháng 3/2018, chiếm đoạt số tiền hơn 3,8 tỷ đồng.
Đến tháng 7/2018, ông Nguyễn Văn Tiến, người được giao quyền Giám đốc Nhà máy sữa ở Đà Nẵng thay ông Sinh, kiểm tra các phiếu xuất kho điều chỉnh cuối tháng, phát hiện sự việc trên và báo với Công ty CP sữa Việt Nam.
Tại tòa, các bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội, thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội đồng thời nộp tiền khắc phục hậu quả. Trong đó, Thảo và Trang nộp lại toàn bộ số tiền chiếm đoạt, Tĩnh và Phú đã nộp một phần số tiền chiếm đoạt.
Đối với ông Sinh có hành vi cùng Phú, Thảo, Trang, Tĩnh chiếm đoạt tài sản của Công ty CP sữa Việt Nam nhưng do đã qua đời nên không đề cập xử lý trách nhiệm hình sự. Tuy nhiên, về phần dân sự buộc người được ủy quyền thừa kế tài sản của ông Sinh để lại, chịu trách nhiệm bồi thường số tiền chiếm đoạt.
Với hành vi trên, HĐXX TAND TP. Đà Nẵng đã tuyên phạt bị cáo Phú mức án 16 năm tù, Thảo 12 năm tù, Trang và Tĩnh cùng mức án 9 năm tù cùng về tội “Tham ô tài sản”. Buộc các bị cáo chịu trách nhiệm liên đới bồi thường thiệt hại cho Công ty CP sữa Việt Nam số tiền hơn 9,5 tỷ đồng.
Hoàng Gia Bảo