Điện gió ngoài khơi được đánh giá là một giải pháp năng lượng lâu dài và bền vững cho Việt Nam nhờ tiềm năng to lớn và nguồn tài nguyên phong phú. Nhiều chuyên gia cũng nhìn nhận, đây là một lựa chọn khả thi và đáng tin cậy mà Việt Nam cần để sản xuất ra năng lượng tái tạo.

Ảnh minh họa, nguồn internet
Ảnh minh họa, nguồn internet.

Cùng với việc phát triển các giải pháp tiên tiến khác như lưu trữ năng lượng khi đi vào vận hành thương mại, Việt Nam sẽ càng có vị thế để tiến xa hơn trong quá trình chuyển đổi xanh nhằm đáp ứng các mục tiêu Net Zero đã cam kết tại COP26.

Tuy nhiên, những vướng mắc của loại hình năng lượng này là gì, liệu có gặp “vấn đề” trong đấu nối hệ thống điện? Các chuyên gia nhận định, điện gió có mức độ phức tạp cao, thời gian xây dựng và phát triển lâu hơn với chi phí đầu tư cũng lớn hơn, đo đó cần chuẩn bị lộ trình phát triển phù hợp.

Việt Nam may mắn sở hữu điều kiện tự nhiên tuyệt vời để phát triển điện gió ngoài khơi. Theo đánh giá của Ngân hàng Thế giới và nhiều báo cáo khác, khu vực phía Nam của Việt Nam là nơi có tiềm năng lớn về điện gió ngoài khơi, đặc biệt là tỉnh Bình Thuận và Ninh Thuận với chất lượng gió tốt nhất.

Nơi đây có vận tốc gió lớn hơn các khu vực khác và do đó tạo ra nguồn điện lớn hơn, đồng thời có thể cung cấp giá điện sạch tốt hơn cho người tiêu dùng nhờ nguồn gió ổn định.

Để tối ưu hóa các nguồn tài nguyên gió của Việt Nam và giảm bớt chi phí cho những dự án đầu tiên tại thị trường mới này, nhà nước phải đánh giá một cách cẩn thận và lựa chọn các khu vực có tốc độ gió tối ưu để phát triển các dự án điện gió ngoài khơi đầu tiên có thể tạo ra nguồn điện năng tốt nhất với chi phí cạnh tranh.

Vì điện gió ngoài khơi không giống với các nguồn năng lượng tái tạo khác, có mức độ phức tạp cao, thời gian xây dựng và phát triển lâu hơn với chi phí đầu tư cũng lớn hơn; do đó, chúng ta cần đặc biệt quan tâm để chuẩn bị một lộ trình phù hợp cho sự phát triển của ngành đặc thù này khi Việt Nam vẫn là một thị trường còn rất mới.

Hiện nay, việc thiếu các quy định và chính sách rõ ràng cùng với sự do dự trong việc làm thế nào để triển khai một dự án điện gió ngoài khơi cũng là những trở ngại lớn cho sự phát triển của ngành điện gió ngoài khơi tại Việt Nam.

Thêm vào đó, thị trường điện gió ngoài khơi ở Việt Nam vẫn phải đối mặt với những thách thức về cơ sở hạ tầng, đòi hỏi phải nâng cấp hệ thống hiện có, ví dụ như công suất kết nối lưới điện và khả năng truyền tải sản lượng điện năng lớn trên khắp cả nước.

Chính phủ có thể xem xét đến việc tiếp cận mang tính hợp tác hơn bằng cách tham gia ngay từ giai đoạn sơ khởi và cho thấy sự đảm bảo hơn trong việc ban hành cơ chế, chính sách, lộ trình nâng cấp, các thỏa thuận thương mại để đảm bảo khung thời gian đã định ra, chia sẻ rủi ro và làm việc với các nhà phát triển có kinh nghiệm để hoàn thiện các lỗ hổng về pháp lý cũng như định hướng thị trường.

Các công ty trong nước, các tổ chức phi chính phủ và các cơ quan chính phủ có liên quan đều sẽ nhận thấy lợi ích to lớn khi tham gia phát triển ngành công nghiệp mới này. Ngoài ra, trong một số trường hợp, các nhà phát triển có thể giúp đầu tư vào cơ sở hạ tầng cần thiết như lưới điện hoặc cảng để giúp đất nước phát triển, đồng thời điều này sẽ giúp nhà đầu tư giảm thiểu rủi ro trong quá trình phát triển dự án.

Năng lượng gió có thể hay biến đổi, tuy nhiên điện gió ngoài khơi thường ổn định hơn so với trên bờ hoặc gần bờ. Hiện nay, Việt Nam chủ yếu đang có các dự án điện gió trên bờ, gần bờ và những dự án này thường có công suất phát điện nhỏ với hệ số công suất thấp, chưa kể đến các yêu cầu cắt giảm sản lượng.

Điện gió ngoài khơi ổn định hơn vì nguồn gió ngoài khơi dồi dào hơn, mạnh hơn và có xu hướng ít ảnh động đến môi trường hơn. Dựa vào những cải tiến trong công nghệ tuabin gió, hệ số công suất của các dự án điện gió đang tăng lên một cách nhanh chóng. Hiện nay, công suất điện gió ngoài khơi trên 50% đang trở nên phổ biến.

Trên thực tế, các dự án điện gió ngoài khơi hiện đại có thể đạt công suất so sánh được với các nhà máy nhiệt điện than và điện khí (thông thường có xu hướng trong khoảng 50% đến 60%). Đây có thể là một giải pháp tối ưu cho Việt Nam khi xem xét tập trung vào các dự án năng lượng tái tạo với quy mô lớn.

Lê Pháp (T/h)