Bộ trưởng Bộ Công Thương đã chia sẻ nhiều thành tựu về kết quả hội nhập kinh tế của Việt Nam tại Tại phiên họp lần thứ nhất của Ban Chỉ đạo xây dựng Đề án "Tổng kết 10 năm thực hiện Nghị quyết số 22-NQ/TW của Bộ Chính trị về hội nhập quốc tế" .
Việt Nam hiện đã có quan hệ chính thức với 189/193 quốc gia và vùng lãnh thổ (trong đó có 4 đối tác chiến lược toàn diện, 17 đối tác chiến lược, 13 đối tác toàn diện); có quan hệ thương mại với 224 đối tác và quan hệ hợp tác với hơn 300 tổ chức quốc tế.
Đến nay, Việt Nam đã ký hơn 90 hiệp định thương mại song phương, gần 60 hiệp định khuyến khích và bảo hộ đầu tư; đàm phán, ký kết và thực thi 19 hiệp định thương mại tự do (FTA) song phương và đa phương với hầu hết các nền kinh tế lớn trên thế giới; trong đó 16 FTA đã có hiệu lực với hơn 60 đối tác, phủ rộng khắp các châu lục với tổng GDP chiếm gần 90% GDP toàn cầu, đưa Việt Nam trở thành một trong những nước dẫn đầu khu vực về tham gia các khuôn khổ hợp tác kinh tế song phương và đa phương.
Bộ trưởng Nguyễn Hồng Diên nhấn mạnh, việc thực thi có hiệu quả các FTA thời gian qua đã giúp mở rộng, đa dạng thị trường, chuỗi cung ứng và sản phẩm xuất khẩu, tạo điều kiện cho hàng hóa Việt Nam tham gia sâu hơn vào chuỗi sản xuất và cung ứng toàn cầu, nâng cao giá trị xuất khẩu các mặt hàng chủ lực.
Từ đó, thúc đẩy kim ngạch xuất nhập khẩu tăng trưởng mạnh và cán cân thương mại được cải thiện rõ rệt theo hướng chuyển từ thâm hụt sang thặng dư (năm 2022 là năm thứ 7 Việt Nam xuất siêu với mức thặng dư gần 12 tỷ USD; 7 tháng đầu năm 2023 tiếp tục ghi nhận mức xuất siêu kỷ lục 15,23 tỷ USD), góp phần nâng cao dự trữ ngoại hối, ổn định tỷ giá và các chỉ số kinh tế vĩ mô khác của nền kinh tế.
Việc tham gia các FTA đã góp phần nâng cao vị thế đối ngoại của đất nước, tăng cường đan xen lợi ích với các đối tác chủ chốt, bảo đảm môi trường hòa bình, ổn định để phục vụ phát triển đất nước.
Chỉ ra những mặt còn tồn tại, hạn chế trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế, Bộ trưởng cho rằng, dù cạnh tranh của nền kinh tế, của doanh nghiệp và hàng hóa Việt Nam mặc dù đã được cải thiện nhưng vẫn còn yếu so với các nước, kể cả một số nước trong khu vực.
"Doanh nghiệp Việt Nam chủ yếu vẫn thực hiện gia công hoặc xuất khẩu nguyên liệu, bán thành phẩm, chưa xây dựng được nhiều thương hiệu riêng tại thị trường nước ngoài. Nguyên liệu đầu vào của nhiều ngành sản xuất vẫn lệ thuộc vào thị trường thế giới; các doanh nghiệp trong nước chưa tham gia mạnh vào các chuỗi cung ứng quốc tế quan trọng, nhất là trong các ngành công nghiệp có tính nền tảng, then chốt", Bộ trưởng nêu.
Cùng đó, phát triển triển kinh tế và thương mại quốc tế chủ yếu vẫn dựa vào các yếu tố bề rộng mà thiếu sự đóng góp đáng kể của các yếu tố chiều sâu (như năng suất lao động, hàm lượng tri thức hay công nghệ). Hiệu quả tận dụng cơ hội, lợi ích từ các cam kết quốc tế trong một số lĩnh vực như khoa học và công nghệ, giáo dục - đào tạo… chưa cao.
Dự báo của nhiều tổ chức quốc tế, khó khăn, thách thức của nền kinh tế toàn cầu sẽ còn kéo dài trong những năm tới, tiếp tục tác động bất lợi đến các nền kinh tế có độ mở lớn như Việt Nam.
Theo đó, Việt Nam cần có chiến lược mới về tham gia các hoạt động thương mại tự do theo hướng tham gia có chọn lọc và thực thi có hiệu quả các FTA, đặc biệt là các FTA thế hệ mới nhằm thúc đẩy các quan hệ kinh tế quốc tế theo chiều sâu, hiệu quả, thiết thực gắn với bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia - dân tộc.
"Trong thời gian tới, Việt Nam khẩn trương kết thúc đàm phán, sớm ký kết FTA với UEA; khởi động đàm phán các FTA mới với các đối tác còn nhiều tiềm năng ở khu vực châu Phi, Nam Á, Tây Á và Nam Mỹ, tạo dư địa cho hàng hóa Việt Nam xâm nhập vào các thị trường này; đồng thời, tiếp tục hỗ trợ doanh nghiệp khai thác có hiệu quả các FTA mà Việt Nam là thành viên để mở rộng, đa dạng hóa thị trường, chuỗi cung ứng và đẩy mạnh xuất khẩu bền vững", Bộ trưởng nhấn mạnh.
Tâm An