Một số ngành chủ lực ghi nhận mức tăng ấn tượng so với cùng kỳ và tháng trước, bao gồm: Sản xuất da và các sản phẩm từ da tăng 8,9% (tháng trước tăng 13,8%); sản xuất xe có động cơ tăng 20,2% (tháng trước tăng 10,9%); sản xuất chế biến thực phẩm tăng 7,1% (tháng trước tăng 7,2%); sản xuất phương tiện vận tải tăng 3,8% (tháng trước tăng 6,2%); và sản xuất sản phẩm điện tử, máy vi tính tăng 20,5% (tháng trước tăng 5,5%).

Tính chung tháng 10, ngành chế biến, chế tạo tăng 8,6%; sản xuất và phân phối điện tăng 7%; cung cấp nước và xử lý rác, nước thải tăng 4,4%; trong khi ngành khai khoáng tăng 5,2%. Ngược lại, sản xuất điện và cung cấp nước có mức giảm nhẹ so với tháng trước, lần lượt -3,1% và -5,8%.
Lũy kế 10 tháng năm 2025, chỉ số IIP tăng 6,9% so cùng kỳ năm 2024, trong đó: công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 7%; cung cấp nước và xử lý rác thải tăng 6,6%; sản xuất và phân phối điện tăng 5,5%; khai khoáng giảm 2,5%. Một số ngành chế biến, chế tạo nổi bật với mức tăng cao gồm: Sản xuất xe có động cơ 17,9%; sản xuất sản phẩm từ khoáng phi kim loại 14,2%; sản xuất da và sản phẩm từ da 11,3%; sản xuất sản phẩm điện tử, máy vi tính 10,4%; sản xuất kim loại 9,7%; sản xuất trang phục 9,2%; hóa chất, dược phẩm và đồ uống tăng khoảng 8%. Trong khi đó, chỉ số IIP giảm nhẹ ở sản xuất giường, tủ, bàn ghế (-1,7%) và thiết bị điện (-1,6%).
Chỉ số sử dụng lao động trong khu vực công nghiệp giảm 0,7% so cùng kỳ, nguyên nhân chủ yếu do Công ty TNHH Nhà thép tiền chế Zamil Việt Nam đóng cửa một nhà máy. Trong đó, lao động khu vực nhà nước giảm 0,9%, khu vực ngoài nhà nước giảm 3,3%, trong khi lao động khu vực FDI tăng 1%.
Kết quả trên phản ánh bức tranh công nghiệp Hà Nội vẫn duy trì đà tăng trưởng ổn định, đặc biệt ở các ngành chế biến chế tạo trọng điểm, đồng thời cho thấy nhu cầu điều chỉnh lao động linh hoạt trong bối cảnh sản xuất.
Nam Sơn (t/h)























