Dự báo về công tác điều hành chính sách tiền tệ năm 2026, TS. Nguyễn Xuân Thành nhận định, định hướng điều hành chính sách tiền tệ năm 2026 của Ngân hàng Nhà nước sẽ theo thứ tự ưu tiên: (1) giữ nguyên lãi suất điều hành, kể cả khi Fed cắt giảm lãi suất; (2) ổn định tỷ giá để kiểm soát dòng vốn và kỳ vọng thị trường; (3) ổn định mặt bằng lãi suất thị trường, tránh biến động bất thường; và (4) nếu thị trường liên ngân hàng hoặc tiền gửi chịu áp lực tăng lãi suất, Ngân hàng Nhà nước sẽ can thiệp thanh khoản hoặc mở rộng cung tiền có kiểm soát.
TS. Nguyễn Tú Anh - Vụ trưởng Ban Chính sách, chiến lược Trung ương. nhận định, cán cân tài chính hiện đang chịu áp lực do dòng vốn gián tiếp và đầu tư ngắn hạn rút ra, đặc biệt từ năm 2024 khi Việt Nam chủ động hạ lãi suất trong khi lãi suất toàn cầu duy trì ở mức cao. Ông cho biết: “Trước 2022, Việt Nam thường ghi nhận thặng dư tài chính do dòng vốn quốc tế vào mạnh. Tuy nhiên, xu hướng này đã đảo chiều từ năm 2024, khiến cán cân chuyển sang trạng thái thâm hụt.”
Theo ông Tú Anh, nếu dòng vốn nước ngoài quay lại, cán cân tài chính có thể trở lại thặng dư, giảm áp lực lên tỷ giá và tạo dư địa cho tăng trưởng tín dụng, cung tiền cũng như hạ lãi suất.

Tuy nhiên, từ góc nhìn thực tiễn, ông Phạm Như Ánh, Tổng giám đốc MB, cho rằng trong ngắn hạn, dòng tiền quốc tế chưa thể đảo chiều nên cán cân tài chính khó có cải thiện đáng kể.
Tổng giám đốc MB phân tích: “Lãi suất điều hành của Fed hiện ở mức 3,75–4%. Nếu đưa USD vào Việt Nam rồi rút về sau một năm, chênh lệch lợi suất chỉ khoảng 2% (5% lãi suất nội địa trừ 3% tỷ lệ trượt giá) – thấp hơn gửi trực tiếp tại Mỹ với lãi suất 4%. Vì vậy, dòng vốn khó vào Việt Nam trong bối cảnh hiện tại.”
Về xu hướng lãi suất trong nước, ông Phạm Như Ánh cho biết, việc lãi suất huy động tăng gần đây là tín hiệu thì trường phản ánh áp lực tỷ giá và không đáng lo ngại:“Ngay cả khi lãi suất tăng thêm 0,5–1 điểm %, mặt bằng lãi suất tại Việt Nam hiện nay vẫn thấp so với trước đây và so với Trung Quốc hay Mỹ, xét trên cả vay và gửi”. Ông cũng lưu ý rằng tăng trưởng tín dụng năm nay dự kiến đạt 19–20%, trong đó khu vực FDI đóng góp đáng kể. Các doanh nghiệp FDI đang tận dụng mức lãi suất 4–5%/năm tại Việt Nam – thấp hơn nhiều so với 6–7% tại nước sở tại – tạo ra một nghịch lý đáng chú ý.
Trong ngắn hạn, ông Phạm Như Ánh dự báo mặt bằng lãi suất có thể giảm nhẹ trở lại hoặc đi ngang trong nửa đầu năm 2026 và tăng trở lại vào nửa cuối năm trước khi hạ nhiệt vào năm 2027.
Dự báo dài hạn, ông Ánh cho rằng nếu Fed hạ lãi suất xuống dưới 3%, kinh tế Việt Nam phục hồi mạnh và chính sách vĩ mô ổn định, dòng vốn quốc tế sẽ có cơ sở quay trở lại. Nếu GDP Việt Nam tăng trưởng khoảng 10% như mục tiêu Chính phủ đề ra, lợi suất đầu tư sẽ vượt xa phần chênh lệch lãi suất, đủ hấp dẫn để hút vốn ngoại trở lại.
Thu Trang

























