Tính đến đầu tháng 6/2025, giá gạo thô kỳ hạn tháng 7/2025 giao dịch trên sàn CBOT đạt mức thấp nhất 12,3 USD/cwt vào ngày 13/5 và cao nhất 13,4 USD/cwt vào ngày 28/5. Bình quân tháng 5/2025, giá gạo thô đạt 12,9 USD/cwt, giảm 19,7% so với cùng kỳ năm trước. Lũy kế 5 tháng đầu năm 2025, giá gạo thô đạt 13,8 USD/cwt, giảm 14,1% so với cùng kỳ năm trước.

Giá gạo toàn cầu giảm, Việt Nam vững vàng vị thế trên thị trường quốc tế nhờ chất lượng và giá cả cạnh tranh
Giá gạo toàn cầu giảm, Việt Nam vững vàng vị thế trên thị trường quốc tế nhờ chất lượng và giá cả cạnh tranh

Tại thị trường trong nước, giá thu mua lúa bình quân tính đến đầu tháng 6/2025 tại tỉnh Tiền Giang cũng có xu thế giảm so với cùng kỳ năm trước. Cụ thể, giá lúa IR 50404 đạt 6.519 đồng/kg, giảm 9,4%; giá lúa Nàng Hoa đạt 7.838 đồng/kg, giảm 1,6%; giá lúa OM 5451 đạt 6.819 đồng/kg, giảm 6,5%; giá lúa Đài Thơm đạt 8.238 đồng/kg, giảm 0,5%.

Gạo Việt ngang tầm Thái Lan, vượt trội ở Philippines

Theo số liệu cập nhật mới nhất từ Hiệp hội Lương thực Việt Nam (VFA), giá gạo 5% tấm của Việt Nam vẫn giữ mức 382 USD/tấn, ngang bằng với sản phẩm cùng phẩm cấp của Thái Lan. Trong khi đó, gạo Ấn Độ thấp hơn 2 USD/tấn và gạo Pakistan cao hơn 4 USD/tấn. Với gạo 25% tấm, Việt Nam hiện đứng ở mức 357 USD/tấn, thấp hơn lần lượt 11 USD/tấn và 9 USD so với gạo cùng phẩm cấp của Thái Lan và Ấn Độ, nhưng cao hơn 5 USD/tấn so với gạo Pakistan.

Tại thị trường quan trọng nhất thế giới là Philippines, báo cáo từ Bộ Nông nghiệp nước này cho biết, tính đến cuối tháng 6/2025, lượng gạo nhập khẩu là 2,17 triệu tấn, ít hơn 163.000 tấn so với cùng kỳ năm 2024. Đáng chú ý, Việt Nam vẫn là nguồn cung chính, với 1,58 triệu tấn gạo nhập khẩu từ Việt Nam tính đến ngày 19/6. Lượng gạo nhập từ Myanmar tăng vọt lên gần 300.000 tấn, vượt qua Thái Lan để chiếm vị trí thứ hai, trong khi Thái Lan đứng thứ ba với 125.000 tấn. Mặc dù Ấn Độ có nguồn cung dồi dào và giá rẻ, nước này chỉ xuất khẩu 19.000 tấn sang Philippines, đứng thứ năm, thấp hơn cả Pakistan (74.000 tấn), cho thấy không phải lúc nào giá rẻ cũng là lợi thế duy nhất.

Theo các chuyên gia, việc Philippines đa dạng hóa nguồn cung gạo và sự gia tăng sản lượng nhập từ Myanmar là bằng chứng cho điều đó. Philippines cũng muốn tăng nhập khẩu từ các nguồn khác, đặc biệt là Thái Lan và Campuchia, tuy nhiên gặp khó khăn về chất lượng và giá cả. Người dân Philippines nhiều năm qua đã quen thuộc với chất lượng của gạo Việt Nam và giá cả hợp túi tiền, tạo nên lợi thế bền vững cho hạt gạo Việt.

Ảnh minh họa, nguồn internet.
Giá gạo toàn cầu giảm, Việt Nam giữ vững nhờ chất lượng và giá cả cạnh tranh. Ảnh minh họa, nguồn internet.

Chiến lược duy trì và mở rộng thị phần xuất khẩu

Để đạt mục tiêu xuất khẩu, Bộ Nông nghiệp và Môi trường cho rằng, Việt Nam cần tiếp tục duy trì thị phần xuất khẩu và tận dụng lợi thế cạnh tranh để gia tăng thị phần gạo thơm. Điều này đặc biệt quan trọng khi Thái Lan và Ấn Độ, hai nhà cung cấp lớn nhất nhì phân khúc gạo thơm vào thị trường Hoa Kỳ, đang chịu mức thuế cao lần lượt là 36% và 26%.

Bên cạnh đó, cần tiếp tục duy trì các thị trường truyền thống có thị phần lớn như Philippines, Indonesia, Malaysia để giữ vững vị thế. Doanh nghiệp Việt Nam cần tích cực tìm kiếm thêm thị trường xuất khẩu mới và đa dạng hóa nguồn nguyên liệu đầu vào để giảm áp lực thuế. Bộ cũng khuyến nghị nghiên cứu chuyển dịch mạnh sang các thị trường EU, Hàn Quốc, Nhật Bản, Singapore đối với các sản phẩm chế biến như bún, mì, nui, phở. Đồng thời, tìm giải pháp giảm chi phí logistics để mở rộng sang các thị trường tiềm năng như Ghana, Bờ Biển Ngà và UAE với chủng loại gạo thơm và gạo trắng.

Dù đối mặt với thách thức về biến động giá và nhu cầu sử dụng gạo trên thế giới, nhưng Việt Nam vẫn được kỳ vọng duy trì sản lượng xuất khẩu ổn định. Việc tập trung vào phân khúc chất lượng cao và xây dựng thương hiệu là yếu tố then chốt giúp duy trì và nâng cao vị thế của gạo Việt trên thị trường quốc tế.

Tâm An (t/h)