Vừa qua, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số 127/NQ-CP, mở đường cho việc áp dụng visa điện tử (E-Visa) cho công dân tất cả các quốc gia trên thế giới, bao gồm cả 257 quốc gia và vùng lãnh thổ. Đây là một bước đột phá trong việc thúc đẩy quan hệ quốc tế, mở rộ cánh cửa cho sự hợp tác và giao lưu giữa các dân tộc.
Từ 15/8/2023, một số quy định mới về quản lý xuất nhập cảnh bắt đầu có hiệu lực: Thực hiện cấp thị thực điện tử (hay visa điện tử, ký hiệu EV) cho công dân tất cả các nước, vùng lãnh thổ; thời hạn thị thực điện tử được nâng lên từ không quá 30 ngày thành không quá 90 ngày và có giá trị 1 lần hoặc nhiều lần; thời hạn tạm trú đối với công dân của 13 nước được Việt Nam đơn phương miễn thị thực được mở rộng lên 45 ngày.
Sự thay đổi quan trọng trong chính sách này chính là thời hạn của visa điện tử. Theo đó, thời hạn thị thực điện tử sẽ được nâng từ 30 lên 90 ngày. Điều này tạo điều kiện linh hoạt cho người nước ngoài có thể trải nghiệm và khám phá Việt Nam trong khoảng thời gian tương ứng. Hơn nữa, người nước ngoài sẽ có khả năng nhập cảnh thông qua tất cả các cửa khẩu của Việt Nam, giúp tạo điều kiện thuận lợi cho việc di chuyển và tương tác.
Về thủ tục đề nghị cấp thị thực điện tử, Cục Quản lý xuất nhập cảnh cho biết: người nước ngoài có nhu cầu vào du lịch, tìm hiểu thị trường, đầu tư... chưa có điều kiện liên hệ với cơ quan, tổ chức ở trong nước có thể tự đề nghị cấp thị thực điện tử mà không cần có cơ quan, tổ chức, cá nhân ở trong nước mời, bảo lãnh.
Theo Cục Quản lý xuất nhập cảnh: "Toàn bộ quá trình từ đề nghị cấp thị thực điện tử đến xử lý, giải quyết cấp và nhận, in thị thực điện tử đều được thực hiện thông qua phương tiện điện tử. Việc nộp phí thị thực được thực hiện qua môi trường điện tử. Người nước ngoài có thể tự in thị thực thông qua hệ thống giao dịch điện tử, không phải làm thủ tục nhận thị thực tại cơ quan có thẩm quyền cấp thị thực của Việt Nam ở nước ngoài hoặc tại cửa khẩu quốc tế, không phải qua khâu trung gian".
Người nước ngoài được cấp thị thực điện tử có thể nhập cảnh Việt Nam với các mục đích phù hợp với pháp luật Việt Nam và được phép chuyển đổi mục đích trong một số trường hợp như: có giấy tờ chứng minh là nhà đầu tư hoặc người đại diện cho tổ chức nước ngoài đầu tư tại Việt Nam theo quy định của pháp luật Việt Nam; có giấy tờ chứng minh quan hệ là cha, mẹ, vợ, chồng, con với cá nhân mời, bảo lãnh; có giấy phép lao động hoặc xác nhận không thuộc diện cấp giấy phép lao động theo quy định của pháp luật về lao động.
Người nước ngoài tạm trú tại Việt Nam phải thông qua người trực tiếp quản lý, điều hành hoạt động của cơ sở lưu trú để khai báo tạm trú với Công an xã, phường, thị trấn hoặc đồn, trạm Công an nơi có cơ sở lưu trú. Hồ sơ đề nghị cấp e-visa của người nước ngoài sẽ bị từ chối khi khai không đúng thông tin và thuộc các trường hợp chưa cho nhập cảnh được quy định tại Điều 21 Luật Nhập cảnh, xuất cảnh, quá cảnh, cư trú của người nước ngoài tại Việt Nam.
Những quốc gia hiện tại chịu sự tác động tích từ sự thay đổi chính sách visa này này là công dân của một số nước đang được hưởng chính sách miễn thị thực đơn phương của Việt Nam bao gồm Hàn Quốc, Nhật Bản, Nga, Thụy Điển, Phần Lan, Na Uy, Đan Mạch, Anh, Pháp, Đức, Tây Ban Nha, Italy và Belarus. Đây là những quốc gia có quan hệ đối tác chặt chẽ với Việt Nam và đã đóng góp tích cực vào phát triển kinh tế và du lịch của đất nước trong thời gian qua.
Bước đi này không chỉ thể hiện sự tư duy mở cửa của Chính phủ Việt Nam, mà còn phản ánh quyết tâm trong việc thúc đẩy sự hợp tác và giao lưu quốc tế. Đây cũng là một chương mới mở ra cho ngành du lịch và phát triển kinh tế của Việt Nam, giúp thu hút thêm đa dạng lượng khách du lịch và đầu tư từ khắp nơi trên thế giới. Việc du khách từ các quốc gia này có thể lưu trú trong khoảng thời gian dài hơn cũng sẽ giúp kích cầu nền kinh tế địa phương, đặc biệt trong ngành du lịch, nhà hàng, khách sạn và các dịch vụ liên quan.
Chính phủ Việt Nam hy vọng rằng việc mở cửa visa điện tử sẽ thúc đẩy mối quan hệ quốc tế và góp phần vào việc tạo ra một môi trường hợp tác và giao quyền giữa các quốc gia. Sự kiện này gắn kết thêm các dân tộc, mang lại lợi ích cho cả hai bên và đánh dấu một bước quan trọng trong hành trình phát triển và hợp tác quốc tế của Việt Nam.
PV