
Từ 864 bệnh nhân được sàng lọc, sau theo dõi loại trừ, nghiên cứu lựa chọn 199 bệnh nhân thực hiện can thiệp thuộc các nhóm đối tượng có nguy cơ như: Tăng huyết áp (huyết áp ≥140/90mmHg) (36 bệnh nhân), đái tháo đường và tiền đái tháo đường (35 bệnh nhân), rối loạn lipid máu (36 bệnh nhân), thừa cân hoặc béo phì (35 bệnh nhân), bệnh phổi tắc nghẽn mãn tính (31 bệnh nhân) và một số đối tượng có nguy cơ khác như tài xế lái xe (26 bệnh nhân). Nghiên cứu thực trạng bệnh nhân mắc hội chứng ngưng thở tắc nghẽn khi ngủ (OSA) ở nhóm đối tượng có nguy cơ rất cao từ 72,5% (rối loạn lipid máu) đến 85,6% (nhóm tăng huyết áp).
Tỷ lệ OSA trung bình - nặng nổi bật ở nhóm tăng huyết áp (58,3%), tiếp đến là đái tháo đường và tiền đái tháo đường, bệnh phổi tắc nghẽn mãn tính. Nhóm lái xe có tỷ lệ OSA thấp hơn (56,6%) nhưng vẫn ở mức cao đối với một nhóm nghề nghiệp đòi hỏi tỉnh táo, cho thấy ý nghĩa sàng lọc của OSA trong nhóm này. Các yếu tố nguy cơ về lối sống và triệu chứng lâm sàng như hút thuốc, uống rượu/bia, sử dụng cà phê hoặc chè buổi tối, ngáy to, cơn ngưng thở chứng kiến, tiểu đêm, ngộp thở khi ngủ, đau đầu buổi sáng, khô miệng,… xuất hiện với tỷ lệ cao ở hầu hết các nhóm, phản ánh gánh nặng triệu chứng cả ban đêm và ban ngày. Các thang điểm sàng lọc (ESS, STOP-BANG, Pichot, PSQI) đều tăng ở các nhóm bệnh lý mạn tính, đồng nhất với tỷ lệ OSA cao và rối loạn giấc ngủ trên đa ký hô hấp.
Nghiên cứu đã xây dựng và đánh giá quy trình sàng lọc OSA từ việc xây dựng quy trình sàng lọc, xác định giá trị chẩn đoán của từng thang điểm sàng lọc, từ đó đề xuất quy trình sàng lọc OSA chung gồm: Xác định nhóm nguy cơ; khai thác triệu chứng và yếu tố nguy cơ; thực hiện 3 thang điểm ESS, STOP-BANG, Berlin; tính điểm nguy cơ tổng hợp OSA; phân tầng nguy cơ; chỉ định đa ký hô hấp tương ứng. Nghiên cứu cũng đã đề xuất quy trình sàng lọc riêng cho từng nhóm đối tượng nguy cơ, xây dựng và thực nghiệm quy trình can thiệp thở áp lực dương (CPAP) gồm các bước: chẩn đoán OSA bằng đa ký; đánh giá chỉ định và chống chỉ định CPAP; tư vấn và lựa chọn thiết bị; thiết lập áp lực và đánh giá dung nạp; theo dõi sớm (đêm 1, tuần 1); đánh giá sau 1 tháng và quyết định tiếp tục điều trị lâu dài và tích hợp quản lý bệnh nền. Sau 01 tháng thực nghiệm CPAP, ở tất cả các nhóm nguy cơ, hội chứng OSA đều giảm rõ rệt, huyết áp tâm thu và tâm trương trung bình cũng như các chỉ số glucose và lipid máu đều nằm trong khoảng tương đối kiểm soát.
Kết quả nghiên cứu của đề tài được Hội đồng thống nhất nghiệm thu xuất sắc, tuy nhiên Ban chủ nhiệm cần rà soát, bổ sung một số dữ liệu trong các bảng biểu đảm bảo tính nhất quán và đầy đủ thông tin, chỉnh sửa một số lỗi trình bày…
Quỳnh Nga (t/h)

























