Mối quan hệ hợp tác đặc biệt

Trong 11 tháng năm 2025, vốn đăng ký đầu tư sang Lào là 590,3 triệu USD, gấp 7,5 lần so với cùng kỳ năm 2025, tập trung vào các lĩnh vực năng lượng, khai khoáng và nông nghiệp. Một số dự án lớn: (i) Dự án điện gió Trường Sơn 2 của Công ty Cổ phần Đầu tư Điện gió Trường Sơn 2 (vốn đăng ký đầu tư ra nước ngoài 111,2 triệu USD); (ii) Dự án bauxite của Công ty Cổ phần Tập đoàn Đầu tư Việt Phương (tăng vốn đầu tư ra nước ngoài 176 triệu USD); (iii) Dự án điện gió Kalong của Công ty TNHH Đầu tư và Kinh doanh thương mại Thanh Thủy (vốn đăng ký đầu tư ra nước ngoài 230,3 triệu USD).

Vốn thực hiện lũy kế đến nay đạt khoảng 3,5 tỷ USD, chiếm 56,3% tổng vốn đăng ký. Trong đó, nhiều dự án đầu tư của doanh nghiệp Việt Nam hoạt động hiệu quả, đóng góp cho sự phát triển kinh tế - xã hội, tạo việc làm và nâng cao thu nhập cho hàng nghìn lao động, bổ sung nguồn thu cho ngân sách nhà nước Lào.

Về địa bàn đầu tư: Các doanh nghiệp Việt Nam đã đầu tư vào 17/18 tỉnh của Lào, trong đó có 10 tỉnh có chung đường biên giới với Việt Nam, tập trung vào các lĩnh vực có sử dụng đất lớn như năng lượng, khai khoáng, nông lâm nghiệp.

Lào phát triển các tuyến cao tốc theo hướng Bắc - Nam và Đông - Tây, tạo mạng lưới giao thông huyết mạch xuyên suốt đất nước. Ảnh: TTXVN
Lào sẽ phát triển các tuyến cao tốc theo hướng Bắc - Nam và Đông - Tây, tạo mạng lưới giao thông huyết mạch xuyên suốt đất nước. Ảnh: TTXVN

Về lĩnh vực đầu tư chính: Hoạt động đầu tư của Việt Nam tại Lào đã có ở hầu hết các ngành, lĩnh vực kinh tế quan trọng của Lào như: sản xuất và phân phối điện, vốn đăng ký 1,94 tỷ USD (chiếm 35,2% tổng vốn đăng ký); nông nghiệp, vốn đăng lý 1,08 tỷ USD (chiếm 17,5%); vui chơi, giải trí, vốn đăng ký 1 tỷ USD (chiếm 16,1%); khai khoáng, vốn đăng ký 935 triệu USD (chiếm 15,1%); tài chính, ngân hàng, vốn đăng ký 381,4 triệu USD (chiếm 6,1%); tiếp theo là lĩnh vực công nghiệp chế biến, chế tạo; phân phối các hàng hóa thiết yếu như điện, xăng dầu, hàng tiêu dùng; cung ứng các dịch vụ du lịch, khách sạn, trung tâm thương mại... Đầu tư của doanh nghiệp Việt Nam tại Lào một mặt mở rộng thị trường cho doanh nghiệp Việt Nam, mặt khác đóng góp quan trọng vào quá trình điều tiết nền kinh tế của Lào, góp phần củng cố quan hệ hữu nghị đặc biệt, hợp tác toàn diện và cùng phát triển.  

Về nghĩa vụ tài chính: Theo báo cáo của doanh nghiệp, đóng góp thuế và các nghĩa vụ tài chính khác của doanh nghiệp Việt Nam cho Chính phủ Lào trong 5 năm trở lại đây đạt khoảng 200 triệu USD/năm. Trong đó nổi bật là: Công ty Unitel (Viettel), Ngân hàng Lào-Việt, Tập đoàn Cao su Việt Nam, Petrolimex, PV Oil, Xekaman 1, Xekaman 3, Tập đoàn Việt Phương, Tập đoàn Thaco… Lũy kế từ năm 2015 đến nay, các doanh nghiệp Việt Nam đã đóng góp nghĩa vụ thuế cho Chính phủ Lào khoảng 2 tỷ USD.

Về an sinh xã hội: Các doanh nghiệp Việt Nam đã đóng góp hơn 300 triệu USD cho công tác an sinh xã hội tại Lào, tập trung chủ yếu cho lĩnh vực y tế, giáo dục, xây dựng nhà cho bà con nghèo vùng sâu, vùng xa,…; nổi bật là dự án tái định cư cho nhân dân vùng dự án thủy điện Xekaman 1 (25 triệu USD), dự án nhà công vụ cho tỉnh Say xổm bun của Tổng Công ty Hợp tác kinh tế (30 tỷ đồng), Tập đoàn Việt Phương trao tặng huyện Đắc Chưng 1 triệu USD,…


Dự án đầu tư của HAGL Agrico tại Lào

“Đoàn kết - Đổi mới - Hợp tác - Phát triển”

Ông Dương Đình Bảng, Chủ tịch Trung ương Hội doanh nghiệp Việt Nam tại Lào - AVILA cho biết: Với tinh thần: “Đoàn kết - Đổi mới - Hợp tác - Phát triển”, qua 3 năm hoạt động, AVILA đã có nhiều thành tích đáng ghi nhận. Trước hết, Hội đã quy tụ, tập hợp đông đảo doanh nghiệp Việt Nam (DNVN) với mọi thành phần, mọi quy mô, đang đầu tư kinh doanh tại Lào - thành một cộng đồng doanh nghiệp gắn kết và hỗ trợ lẫn nhau, mặt tổ chức luôn được củng cố và phát triển, đang trong tiến trình thành lập các Chi hội DNVN tại các tỉnh của Lào. Hội đã có gần 350 hội viên trên toàn Lào, hình thức hoạt động thiết thực. Nhiều Hội viên đã đầu tư thành công trong các lĩnh vực then chốt, tăng nguồn thu ngân sách, tạo công ăn việc làm, góp phần phát triển kinh tế - xã hội của Lào, như lĩnh vực viễn thông, ngân hàng, năng lượng, trồng và chế biến cao su, sản xuất chế biến nông sản, sữa, đường, tinh bột sắn…  Hội luôn có trách nhiệm với xã hội, tích cực hoạt động công tác dân sinh…, được Thủ tướng Chính phủ Lào đánh giá là “lực lượng và động lực nòng cốt để thúc đẩy hợp tác kinh tế giữa hai nước phát triển”.

Tuy nhiên, trong hoạt động đầu tư kinh doanh của các DNVN tại Lào, vẫn gặp nhiều thách thức, khó khăn vướng mắc. Để hạn chế, khắc phục điều này, nâng cao hiệu quả trong đầu tư kinh doanh, ông Dương Đình Bảng đã đưa ra một số kiến nghị với Chính phủ, các bộ, ngành của hai nước như sau:

Thứ nhất, các bộ, ngành hai nước tăng cường trao đổi kinh nghiệm trong quản lý kinh tế vĩ mô, nhất là hỗ trợ Lào sớm hoàn thiện quy hoạch chiến lược phát triển kinh tế theo vùng, theo ngành, để có cơ sở cho việc kết nối nền kinh tế hai nước đi vào trọng tâm trọng điểm, ưu tiên hợp tác phát triển kinh tế dọc biên giới,... đạt mục tiêu “Biên giới hòa bình - hữu nghị và phát triển”.

Thứ hai, thúc đẩy kết nối phát triển cơ sở hạ tầng giao thông giữa hai nước: đường bộ, đường sắt, hàng không..., xây dựng các cửa khẩu thông minh, thuận lợi cho việc qua lại của người, phương tiện và lưu thông hàng hóa. Hợp tác phát triển các khu du lịch, khu công nghiệp, hệ thống kho hàng... thống nhất cơ chế, khắc phục các bất cập trong logistics... Ưu tiên áp dụng công nghệ mới vào sản xuất, chế biến khoáng sản, nông lâm sản. Đẩy mạnh hợp tác chuyển đổi số, thương mại điện tử để tăng trưởng trao đổi thương mại giữa hai nước.

Thứ ba, tăng cường kết nối chính sách tài chính ngân hàng, đẩy mạnh hợp tác sử dụng đồng tiền LAK và VND để giảm phụ thuộc vào ngoại tệ khác..

Thứ tư, đề nghị phía Lào hoàn thiện cơ chế chính sách cởi mở nhằm thu hút các nhà đầu tư lớn của Việt Nam, các đối tác liên doanh của nước thứ 3 đầu tư vào Lào, ưu tiên cho các dự án mang tính đột phá. Tiếp tục giải quyết vướng mắc cho các dự án đầu tư của Việt Nam tại Lào.

Thứ năm, nghiên cứu đổi mới việc sử dụng vốn viện trợ không hoàn lại của Chính phủ Việt Nam dành cho Lào, tập trung vào các dự án mang tính động lực, kết nối hạ tầng, tranh thủ công nghệ mới vào sản xuất hàng hóa xuất khảu, nhằm tăng nguồn thu ngoại tệ cho Lào.

Thứ sáu, đối với DNVN đầu tư tại Lào, hoặc ngược lại, các doanh nghiệp Lào đầu tư tại Việt Nam, kiến nghị được hưởng chính sách đặc biệt, như: miễn giảm thuế, vay vốn ưu đãi, áp dụng cơ chế đặc thù trong hợp tác lao động, để nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp hai nước. Tăng cường công tác bảo hộ, bảo vệ quyền lợi cho nhà đầu tư.

Đẩy mạnh hợp tác trong lĩnh vực năng lượng

Về hợp tác giữa Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN) với các doanh nghiệp Lào thời gian qua, được biết: EVN đang bán điện cho Tổng công ty Điện lực Lào qua các đường dây trung áp 35kV, 22kV để hỗ trợ phát triển cho các địa phương dọc biên giới Việt Nam - Lào. Song song đó, nhằm bổ sung nguồn điện cho hệ thống điện Việt Nam, EVN đã và đang mua điện từ các nhà máy thủy điện, điện gió của các chủ đầu tư tại Lào thông qua các đường dây truyền tải 500kV, 220kV. Hợp tác mua bán điện qua biên giới hai nước đã góp phần phát triển kinh tế - xã hội và hợp tác thực chất, hiệu quả giữa EVN và doanh nghiệp Lào.

Hợp tác trong lĩnh vực năng lượng không chỉ là động lực cho việc phát triển kinh tế của hai nước, mà còn đóng vai trò thúc đẩy quan hệ Việt Nam - Lào bền chặt. Hợp tác năng lượng giữa Việt Nam - Lào xuất phát từ nhu cầu thực tiễn của hai nước. Trong khi phía Lào có tiềm năng lớn trong lĩnh vực năng lượng, đặc biệt thủy điện, nhưng nhu cầu phụ tải của Lào thấp, do vậy chủ đầu tư các dự án điện tại Lào mong muốn bán điện về Việt Nam. Về phía Việt Nam, EVN đánh giá việc nhập khẩu điện Lào trong các năm tới là một trong những giải pháp hiệu quả hỗ trợ đảm bảo an ninh cung cấp điện.

Đường dây 220kV Xekaman - Pleiku2 truyền tải điện từ Lào về Việt Nam
Đường dây 220kV Xekaman - Pleiku2 truyền tải điện từ Lào về Việt Nam

Trong giai đoạn đến năm 2030, Việt Nam ưu tiên nhập khẩu nguồn điện từ Lào trực tiếp về khu vực Tổng Công ty điện lực miền Bắc (khu vực Hà Tĩnh, Nghệ An, Thanh Hóa trở ra phía Bắc) hoặc đưa vào khu vực Nam Bộ phù hợp với khả năng giải tỏa công suất của lưới điện truyền tải; Khuyến khích các dự án đấu nối trực tiếp về các trung tâm phụ tải lớn tại khu vực miền Bắc hoặc miền Nam để cung cấp điện trực tiếp cho phụ tải, giảm áp lực lên lưới điện truyền tải quốc gia, nghiên cứu phương án thu gom các nguồn điện tại Lào vào các điểm đấu nối chung để truyền tải điện về Việt Nam đảm bảo vận hành hệ thống điện truyền tải quốc gia an toàn tin cậy và ổn định; Nghiên cứu, xem xét việc triển khai các đường dây đấu nối các dự án nguồn điện tại Lào từ biên giới Lào - Việt Nam về các đường trục 500kV ngắn nhất hoặc bằng công nghệ truyền tải siêu cao áp một chiều (HVDC) đáp ứng hiệu quả đầu tư và sử dụng quỹ đất; xem xét phát triển lưới điện kết nối hai nước, nhằm tăng cường trao đổi điện năng giữa hai quốc gia.

Quy hoạch phát triển Điện lực Việt Nam giai đoạn 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050 đã xác định, đến năm 2030 sẽ nhập khẩu khoảng 9.360 - 12.100 MW từ Lào theo Hiệp định giữa hai Chính phủ. Đây là cơ sở quan trọng để các doanh nghiệp hoạt động trọng lĩnh vực điện lực của Việt Nam và Lào tiếp tục nghiên cứu cơ hội, thiết lập và triển khai hợp tác mua bán điện qua biên giới trong giai đoạn tới.

Với định hướng như đã nêu, EVN mong muốn lãnh đạo hai Chính phủ và các bộ, ngành liên quan hỗ trợ tạo điều kiện thúc đẩy hợp tác năng lượng điện giữa hai nước, đáp ứng mục tiêu phát triển của mỗi quốc gia đồng thời đảm bảo lợi ích của doanh nghiệp hai bên.

Minh Anh