Pháp luật sở hữu trí tuệ của Việt Nam cũng như hầu hết các nước trên thế giới có quy định cụ thể khái niệm các đối tượng quyền sở hữu trí tuệ có thể được bảo hộ cho đặc sản địa phương gắn với địa danh, bao gồm:
Chỉ dẫn địa lý là dấu hiệu dùng để chỉ sản phẩm có nguồn gốc từ khu vực, địa phương, vùng lãnh thổ hay quốc gia cụ thể.
Nhãn hiệu tập thể là nhãn hiệu dùng để phân biệt hàng hoá, dịch vụ của các thành viên của tổ chức là chủ sở hữu nhãn hiệu đó với hàng hoá, dịch vụ của tổ chức, cá nhân không phải là thành viên của tổ chức đó.
Nhãn hiệu chứng nhận là nhãn hiệu mà chủ sở hữu nhãn hiệu cho phép tổ chức, cá nhân khác sử dụng trên hàng hóa, dịch vụ của tổ chức, cá nhân đó để chứng nhận các đặc tính về xuất xứ, nguyên liệu, vật liệu, cách thức sản xuất hàng hoá, cách thức cung cấp dịch vụ, chất lượng, độ chính xác, độ an toàn hoặc các đặc tính khác của hàng hoá, dịch vụ mang nhãn hiệu.
Tùy thuộc vào tính chất của từng loại sản phẩm cũng như nhu cầu, điều kiện thực tế của từng vùng sản xuất đặc sản địa phương để lựa chọn tạo lập và phát triển đối tượng quyền sở hữu trí tuệ phù hợp. Đây được coi là bước đi đầu tiên, đặt nền tảng cho chuỗi tiến trình đưa đặc sản địa phương đến với thị trường quốc tế. Tuy nhiên, để có thể đứng vững và khẳng định được vị thế cạnh tranh trên thị trường, việc xây dựng “thương hiệu” cho sản phẩm được coi là vấn đề sống còn.
Thuật ngữ “thương hiệu” không được định nghĩa chính xác trong văn bản pháp luật sở hữu trí tuệ hiện hành của Việt Nam nhưng nó lại được sử dụng phổ biến, rộng rãi trong đời sống xã hội. Luật Sở hữu trí tuệ có khái niệm “nhãn hiệu” - là dấu hiệu dùng để phân biệt hàng hoá, dịch vụ của các tổ chức, cá nhân khác nhau. Trên thực tế, thuật ngữ này thường được dùng lẫn với “thương hiệu”. Tuy nhiên, về bản chất đây là 2 khái niệm có nội hàm và ý nghĩa khác nhau.
Từ các góc độ, cách tiếp cận khác nhau, người ta có thể hiểu “thương hiệu” theo những cách khác nhau. Tuy nhiên, theo nghĩa chung nhất, “thương hiệu” được hiểu là tập hợp các dấu hiệu để nhận biết, phân biệt và ghi nhớ sản phẩm/doanh nghiệp trong tâm trí người tiêu dùng; là cảm nhận của công chúng về sản phẩm, dịch vụ với đầy đủ các khía cạnh cảm tính và lý tính. “Thương hiệu” giúp tạo ra sự khác biệt đồng thời khẳng định uy tín, danh tiếng, sứ mệnh của sản phẩm/doanh nghiệp trên thị trường.
Như vậy, nếu như “nhãn hiệu” là dấu hiệu mang tính hữu hình thì “thương hiệu” hàm chứa trong nó nhiều yếu tố vô hình; nếu như “nhãn hiệu” là đối tượng quyền sở hữu trí tuệ được xác lập trên cơ sở quyết định cấp Giấy chứng nhận đăng ký bảo hộ của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền (Cục Sở hữu trí tuệ) trong một khoảng thời gian nhất định (10 năm và có thể gia hạn) thì “thương hiệu” là kết quả của quá trình gây dựng, tích lũy lâu dài của doanh nghiệp và nó tồn tại trong tâm trí người tiêu dùng. “Thương hiệu” có thể tồn tại ngay cả khi sản phẩm mang nhãn hiệu không còn tồn tại nữa và ngược lại “thương hiệu” có thể hoàn toàn mất đi ngay cả khi “nhãn hiệu” vẫn đang được bảo hộ.
“Thương hiệu” là yếu tố mang sức mạnh vô hình quyết định sự tồn vong của sản phẩm/doanh nghiệp. Chính vì vậy, các chương trình, hoạt động quảng bá, xúc tiến thương mại đặc sản địa phương ra nước ngoài không thể không gắn chặt với việc gây dựng, bảo vệ và gìn giữ “thương hiệu”.
Anh Minh