THCL Thị trường bán lẻ Việt Nam đang bộc lộ nhiều yếu kém, trong khi bán lẻ ngoại lấn lướt thì bán lẻ nội dè dặt và yếu thế. Nguyên nhân của những tồn tại là gì?
Thị trường bán lẻ Việt Nam đang bộc lộ nhiều yếu kém
Hệ thống phân phối bất cập
Câu trả lời đã có: Thị trường bán lẻ Việt Nam hiện chưa có chiến lược đầy đủ, cả ở 3 cấp: Nhà nước, ngành và DN. Vốn liếng quá nhỏ bé, vốn tự có của các siêu thị nội chỉ đủ 15 - 20% nhu cầu kinh doanh, siêu thị lớn như Saigon Coop chỉ 1.000 tỷ đồng vốn tự có. 60 - 70% các siêu thị nội phụ thuộc hầu hết vào vốn vay ngân hàng với lãi suất cao hơn các DN nước ngoài vay của công ty mẹ từ 4 - 5%.
Chính vì vậy, họ khó đầu tư vào việc thu mua hàng hóa một cách trực tiếp, hàng hóa qua quá nhiều khâu trung gian bất hợp lý mới đến được quầy, kệ của siêu thị nội. Điều này lý giải tại sao giá cả của các siêu thị nội thường cao hơn giá của các siêu thị ngoại trên thị trường.
Bên cạnh đó, nhân lực điều hành kinh doanh, kể cả giám đốc các siêu thị nội ít được đào tạo chuyên ngành bán lẻ dẫn đến công tác quản trị DN còn yếu, năng suất lao động thấp và phục vụ thiếu chuyên nghiệp. Các DN bán lẻ Việt Nam, nếu nhìn vào quầy hàng, kệ hàng thì cách bày biện hầu như không có điểm khác biệt, ít đổi mới; văn hóa kinh doanh, phục vụ khách hàng còn phải khắc phục; một số DN ít chăm lo đến công tác xây dựng thương hiệu bán lẻ theo đúng nghĩa của nó.
Một số DNNN được giao nhiệm vụ kinh doanh bán lẻ và bán lẻ hiện đại có vốn quý nhất là các mạng lưới bán lẻ, hình thành hàng chục năm từ thời kỳ bao cấp, rất đắc địa ở các quận trung tâm của các thành phố lớn thì hiện nay, một phần đã đem cho thuê, hoặc liên doanh, liên kết với những đơn vị, mặt hàng không phù hợp với nhiệm vụ được giao. Các địa điểm này không được đấu thầu công khai một cách minh bạch. Rõ ràng, với cách sử dụng mạng lưới như kể trên thì các DNNN đã tự làm yếu mình trong cuộc chạy đua cạnh tranh với các DN bán lẻ nước ngoài khi họ đang khẩn trương mở rộng các mạng lưới, nhất là ở các thành phố lớn, nơi mà nhu cầu tiêu dùng ngày càng cao.
Một điểm yếu cố hữu mà báo chí, các chuyên gia thường hay nhắc đến ở cả khâu sản xuất và phân phối đó là tính cấu kết trong con người Việt nói chung và trong kinh doanh của người Việt nói riêng còn rất ít, không bền vững, dễ bị phá vỡ, hình như vấn đề này nhiều năm chưa được khắc phục một cách cơ bản. Mạnh ai người đó thu mua hàng hóa để tổ chức bán ra, sự phối hợp điều chỉnh hỗ trợ trong thu mua và trong bán ra của các DN nội chưa có gì rõ nét, các con thuyền nan nhỏ ít hợp sức với nhau.
Do vậy, không tạo thành sức mạnh tổng hợp chung, kể cả các DN đã tham gia vào các hiệp hội. Cá biệt, một số siêu thị lớn có mối quan hệ với nhà cung ứng hàng hóa chưa bình đẳng như đòi hỏi chiết khấu cao, có khi lên tới 15 - 20% và lại cộng thêm một số chi phí khác làm cho hàng hóa bị đẩy giá lên cao, khó cạnh tranh ngay ở thị trường nội địa. Người tiêu dùng theo đó bị thiệt thòi, người sản xuất không được hưởng lợi nhuận một cách hợp lý; hàng ngon, hàng đẹp đủ tiêu chuẩn lại rất khó vào siêu thị để phục vụ nhân dân.
Nói như vậy, không phải là các DN kinh doanh siêu thị ở Việt Nam có lỗi hoàn toàn trong sự yếu kém này. Còn có một số yếu tố khách quan, như: Công tác quy hoạch hệ thống bán lẻ nói chung và hệ thống bán lẻ hiện đại nói riêng trong toàn quốc, cũng như ở Hà Nội chưa được xây dựng một cách khoa học, thực thi yếu, thiếu các điều kiện cần và đủ cho quy hoạch thực hiện; đôi lúc tùy tiện cục bộ gây thiệt hại trước hết đối với các DN nhỏ bé của Việt Nam…
Lấy một ví dụ, ngay tại Hà Nội, trên tuyến đường Thái Thịnh, chưa đầy 1 km đã có tới 3 siêu thị hoạt động. Kết cục, một siêu thị Hapro đóng cửa sớm, nó còn gây ra bức xúc trong nội bộ các siêu thị nội với nhau khi quy hoạch không khoa học và trùng lặp tự hại nhau như vậy.
Cạnh tranh thiếu công bằng
Về cạnh tranh công bằng trên thị trường, các DN kinh doanh siêu thị làm ăn nghiêm túc thì 1 kg thịt bán ra cao hơn 10.000 đồng so với bàn thịt tư nhân, chính sách thuế không công bằng giữa thuế VAT và thuế khoán. Một điều cần nói thêm về thuế là mức thuế tiêu dùng ở Việt Nam phổ biến 10% như hiện nay là quá cao, nhất là trong điều kiện sức mua còn rất yếu trong mấy năm gần đây, cũng làm cho sức tiêu thụ của hàng Việt bị giảm sút.
Sự cạnh tranh về giá trở nên méo mó trên thị trường bán lẻ khi có những quỹ bình ổn giá với lãi suất 0% rót cho một số đơn vị trên thị trường, có tới 50% rót cho các DN bán lẻ nhà nước, trong khi đó, một số DN khác có đủ điều kiện lại không được hỗ trợ. Vì vậy, sự cạnh tranh sẽ không công bằng, bị méo mó và phi thị trường, hệ quả đem lại có những mặt rất vô lý như giá hàng hóa ở DN được quỹ bình ổn đài thọ lại cao hơn ở các DN bán lẻ không được tham gia bình ổn.
Chính vì lẽ đó, một số tỉnh và TP. Hồ Chí Minh đã bỏ bình ổn giá từ 4 - 5 năm nay, thay vào đó là tổ chức liên kết, tiêu thụ hàng hóa, kết nối cung - cầu để đảm bảo nguồn cung cho thị trường bán lẻ. Sau nhiều năm, có rất nhiều ý kiến không đồng tình thì đến cuối năm 2016, Hà Nội mới bỏ việc cấp quỹ bình ổn giá bình quân 200 tỷ đồng/năm với lãi suất 0% trước đây cho các DN với hiệu quả sử dụng rất thấp và không kinh tế. Thay vào đó là giải quyết bài toán cung - cầu, liên kết hàng hóa như TP. Hồ Chí Minh đã thực hiện trước đây.
Mặt khác, hàng lậu, hàng giả tràn lan trên thị trường chưa được giải quyết một cách cơ bản, người làm ăn nghiêm túc thiệt thòi, gian thương thu lợi bất chính. Các vụ xử lý của các cơ quan chức năng mới chỉ chạm đến phần nổi của tảng băng chìm buôn lậu và gian lận thương mại.
Về chi phí lưu thông, ngoài các chi phí chung mà các DN kinh doanh siêu thị phải thực hiện thì còn phải chịu các chi phí khác khá tốn kém, không đáng có như tiếp cận đất đai khó khăn khi mở chuỗi siêu thị, các thủ tục hành chính phiền hà, mất thời gian, chi phí mặt bằng bị đẩy lên một cách vô lý, chi phí kho vận logistic cao hơn 1,5 lần so với các nước trong khu vực và các chi phí khó nói khác. Đối với các siêu thị nhà nước như Hapro, lại còn chịu thêm những chi phí khó có thể trình bày được như chi phí phục vụ thị trường nông thôn, chống bão lụt… nếu không có sự hỗ trợ hợp lý của địa phương thì chắc chắn sẽ bị lỗ hoặc không có lợi nhuận của những chuyến hàng đó.
Về công tác quản lý nhà nước trên lĩnh vực bán lẻ, tuy đã có nhiều cố gắng trong công tác hỗ trợ xúc tiến thương mại, liên doanh liên kết để tổ chức nguồn hàng, đào tạo cán bộ, cung cấp thông tin thị trường... cho các DN. Mặc dù vậy, còn rất nhiều tồn tại cần khắc phục như công tác kiểm soát chống buôn lậu, gian lận thương mại, trốn thuế, sản xuất và kinh doanh hàng giả hiệu quả chưa cao.
Sự quan tâm đến hoạt động của các hiệp hội ngành nghề có liên quan đến bán lẻ còn hạn chế, nặng về quản lý theo kiểu hành chính, ít động viên, hỗ trợ thiết thực cho các hiệp hội hoạt động. Sự hỗ trợ cho các địa phương trong việc nâng cao năng lực cạnh tranh, xây dựng thương hiệu bán lẻ chưa được quan tâm đúng mức. Đội ngũ cán bộ làm công tác quản lý nhà nước trình độ còn hạn chế, chưa theo kịp tình hình chung của xu thế hội nhập. Điều đó làm ảnh hưởng đến sự phát triển nhanh và bền vững của các DN trên cả nước.
Vũ Vinh Phú