Thủ tướng Phạm Minh Chính chính thức thăm Nhật Bản vào ngày 22/11/2021, những thông số về quan hệ kinh tế, đầu tư, văn hóa, xã hội đã được các phương tiện thông tin quốc tế và trong nước đăng tải dày đặc. Theo Cục Đầu tư nước ngoài, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, tính đến cuối tháng 10/2021, Nhật Bản đứng thứ 2/141 quốc gia và vùng lãnh thổ đã có đầu tư nước ngoài tại Việt Nam với 4.765 dự án còn hiệu lực với tổng vốn đăng ký 63,94 tỷ USD. Quy mô dự án bình quân của Nhật Bản là 13,4 triệu USD/dự án, cao hơn quy mô dự án bình quân chung của cả nước là 11,7 triệu USD/dự án.

 Dự án Công ty TNHH Lọc hóa dầu Nghi Sơn, một trong số các dự án tiêu biểu của nhà đầu tư Nhật Bản tại Việt Nam tổng vốn đầu tư là 9 tỷ USD.

Phân tích về sự dịch chuyển dòng vốn FDI của các nhà đầu tư Nhật Bản vào Việt Nam, chuyên gia kinh tế, Đại biểu Quốc hội Phan Đức Hiếu so sánh số liệu 10 tháng năm 2021 với cùng kỳ năm ngoái. 10 tháng đầu năm 2020, Nhật Bản là nhà đầu tư đứng vị trí thứ tư với tổng số vốn đăng ký cấp mới là gần 472 triệu USD và khoảng 50 dự án cấp mới.

Tuy nhiên, bước sang năm 2021, riêng trong 10 tháng, các nhà đầu tư Nhật Bản đã đầu tư 150 dự án mới (gấp 3 lần so với cùng kỳ năm trước), điều chỉnh 105 lượt dự án và 170 lượt dự án góp vốn, mua cổ phần với tổng vốn đăng ký 3,38 tỷ USD, đứng thứ 3/97 quốc gia và vùng lãnh thổ có đầu tư tại Việt Nam (chỉ sau Singapore và Hàn Quốc).

”Dòng vốn FDI từ Nhật vào Việt Nam có sự tăng trưởng ấn tượng, sắc nét, rất tích cực bất chấp những khó khăn, thách thức do tác động của dịch Covid-19 thể hiện niềm tin của doanh nghiệp FDI Nhật Bản và sức hút của thị trường Việt Nam. Đây cũng là cơ hội tốt để tiếp tục mở rộng và làm sâu sắc thêm hợp tác đầu tư giữa hai bên trong bối cảnh mới”, ông Hiếu nhận định.

Báo cáo mới nhất của Bộ Kế hoạch và Đầu tư về hợp tác đầu tư Việt Nam - Nhật Bản chỉ ra rằng, là một trong những đối tác đầu tư quan trọng hàng đầu của Việt Nam, Nhật Bản hiện đã đầu tư tại 57/63 tỉnh, thành phố của Việt Nam. Thanh Hóa là địa phương thu hút đầu tư nước ngoài lớn nhất của Nhật Bản với số vốn là 12,5 tỷ USD chiếm 19,59% tổng vốn đầu tư.

Hình thành chuỗi cung ứng của doanh nghiệp Việt - Nhật

Ông Shimuzu Akira, Trưởng Đại diện Cơ quan Hợp tác Quốc tế Nhật Bản tại Việt Nam cho biết, các doanh nghiệp Nhật Bản đánh giá Việt Nam có vị trí đặc biệt quan trọng trong việc hình thành chuỗi cung ứng nên họ lựa chọn Việt Nam là điểm đến đầu tư chiến lược trong hoạt động đầu tư, kinh doanh.

Có thể kể đến hai trong số các yếu tố thu hút các nhà đầu tư Nhật Bản là nguồn nhân lực với chất lượng cao và chi phí lao động cạnh tranh. Vì vậy, ông Akira cho rằng nhu cầu đầu tư và phát triển dự án của các doanh nghiệp Nhật Bản vào Việt Nam không bị ảnh hưởng dù trong bối cảnh đại dịch COVID-19.

Hiện các dự án đầu tư của Nhật Bản tại Việt Nam tập trung vào 19 ngành, lĩnh vực, nhưng tập trung nhiều nhất trong lĩnh vực công nghiệp chế biến, chế tạo với 1.842 dự án với số vốn 41,79 tỷ USD vốn đăng ký, chiếm đến 65,3% tổng vốn đầu tư. Lĩnh vực sản xuất phân phối điện đứng thứ hai với 19 dự án, tổng vốn đầu tư là 7,4 tỷ USD chiếm 11,5% tổng vốn đầu tư. Kế đến là kinh doanh bất động sản với số vốn là 6,97 tỷ USD chiếm 10,9% tổng vốn đầu tư.

 Dự án Thành phố thông minh tại huyện Đông Anh, Hà Nội với vốn đầu tư là 94.349 tỷ đồng do Liên doanh Sumimoto (Nhật Bản) và Tập đoàn BRG đầu tư. 

Một số dự án tiêu biểu của nhà đầu tư Nhật Bản tại Việt Nam như: Dự án Công ty TNHH Lọc hóa dầu Nghi Sơn, tổng vốn đầu tư là 9 tỷ USD; Dự án Thành phố Thông minh, tổng đầu tư là 4,13 tỷ USD với mục tiêu đầu tư xây dựng khu đô thị thông minh, đồng bộ về hạ tầng kỹ thuật và hạ tầng xã hội bao gồm Trung tâm tài chính thương mại, nhà trẻ, vườn hoa công viên, khu nhà ở dự án đầu tư tại Hà Nội; Dự án đầu tư xây dựng nhà máy nhiệt điện BOT Nghi Sơn 2, tổng đầu tư là 2,79 tỷ USD tại Thanh Hóa.

Ngoài ra, cũng theo đại diện Cơ quan Hợp tác quốc tế Nhật Bản, xu hướng doanh nghiệp Việt đầu tư nước ngoài vào Nhật Bản ngày càng tăng là một điểm đáng chú ý, cho thấy Việt Nam và Nhật Bản là những đối tác tương đồng với nhau. Đơn cử, trong lĩnh vực công nghệ thông tin, một doanh nghiệp lớn của Việt Nam hiện đã có 10 chi nhánh ở Nhật Bản. Điều này là minh chứng cho việc doanh nghiệp Việt Nam xuất sắc có thể dễ dàng hợp tác với Nhật Bản, cũng như triển vọng đầu tư của Việt Nam tại Nhật Bản hoàn toàn có thể triển khai trong thực tế.

Mặt khác, thông tin từ Vụ Thị trường châu Á - Châu Phi, Bộ Công Thương, các doanh nghiệp FDI lớn của Nhật Bản như: Canon, Panasonic trong lĩnh vực điện tử; Toyota, Honda, Yamaha, Suzuki, Mitsubishi thuộc nhóm công nghiệp chế tạo; đại diện ngành năng lượng là Marubeni, Sojitz, Idemitsu, Mitsui hay Tập đoàn dệt may Toray;…đều đóng vai trò quan trọng góp phần đáp ứng nhu cầu tiêu thụ năng lượng và nâng cao năng lực sản xuất, xuất khẩu, giúp Việt Nam từng bước tham gia sâu, rộng hơn và có chỗ đứng hơn trong chuỗi giá trị toàn cầu, nhất là các lĩnh vực như cơ khí, luyện kim, hóa chất, điện - điện tử, năng lượng, dệt may, da giày.../.

Ông Đỗ Quốc Hưng, Phó Vụ trưởng Vụ Thị trường Châu Á - Châu Phi, Bộ Công Thương nhấn mạnh: Nhật Bản là đối tác kinh tế, thương mại hàng đầu của Việt Nam. Kim ngạch Thương mại giữa hai nước hiện đạt khoảng hơn 40 tỷ USD. Đáng chú ý, kim ngạch xuất khẩu và nhập khẩu của nước ta và Nhật Bản tương đối cân bằng. Tốc độ tăng trưởng thương mại giữa hai bên cũng đều đặn trong giai đoạn vừa qua.

10 tháng đầu năm 2021, kim ngạch xuất nhập khẩu của Việt Nam với Nhật Bản đạt 34,3 tỷ USD, tăng 6,4% so với cùng kỳ năm 2020. Về xuất khẩu, kim ngạch của Việt Nam sang Nhật Bản đạt 16,3 tỷ USD. Kim ngạch nhập khẩu của Việt Nam từ Nhật Bản đạt 18,1 tỷ USD.

Bên cạnh đó, Nhật Bản cũng là đối tác đã ký kết nhiều hiệp định thương mại tự do song phương và đa phương nhất với Việt Nam như: Hiệp định Đối tác Kinh tế Việt Nam - Nhật Bản (VJEPA năm 2009); Hiệp định Đối tác Kinh tế toàn diện ASEAN - Nhật Bản (AJCEP năm 2008); Hiệp định Đối tác toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP năm 2019), Hiệp định Đối tác Kinh tế toàn diện khu vực (RCEP năm 2020).

Ngoài ra, Việt Nam và Nhật Bản có nhiều cơ chế hợp tác chính thức để giải quyết các nội dung kinh tế, thương mại gồm: Ủy ban Hỗn hợp về hợp tác thương mại, Công nghiệp và Năng lượng giữa Việt Nam và Nhật Bản, Ủy ban Hợp tác Việt Nam - Nhật Bản, Sáng kiến chung Việt Nam - Nhật Bản.

Điều đặc biệt là cơ cấu mặt hàng xuất nhập khẩu của hai nước mang tính bổ sung rõ nét, không có sự cạnh tranh trực tiếp. Việt Nam chủ yếu sản xuất và xuất khẩu sang Nhật Bản các loại thủy sản, dầu thô, dệt may, dây điện và dây cáp điện, gỗ và sản phẩm gỗ, máy vi tính và linh kiện, than đá, giày dép các loại...

Trong khi đó, Việt Nam nhập khẩu từ Nhật Bản những mặt hàng phục vụ cho sản xuất công nghiệp gồm: Máy móc, thiết bị, dụng cụ và phụ tùng, sản phẩm điện tử và linh kiện, sắt thép các loại, vải các loại, linh kiện ô tô, chất dẻo nguyên liệu, hóa chất, nguyên phụ liệu dệt, may, da, giày, kim loại…

Theo ông Hưng, Việt Nam - Nhật Bản còn rất nhiều tiềm năng để phát triển quan hệ thương mại. Cùng tham gia nhiều FTA và các cơ chế hợp tác sẵn có như tôi vừa chia sẻ chính là cơ sở quan trọng để thúc đẩy hợp tác bền vững, mở ra nhiều thời cơ mới và đầy hứa hẹn trong việc phát triển thương mại song phương giữa hai nước.

Cầu cạn Mai Dịch - Nam Thăng Long (Hà Nội) do Bộ Giao thông vận tải làm chủ đầu tư có chiều dài 5,36km, sử dụng nguồn vốn ODA của Nhật Bản và vốn đối ứng của Chính phủ Việt Nam. Ảnh Trung Nguyên/Báo Tin tức

Trong giai đoạn dịch Covid-19 diễn biến phức tạp và căng thẳng vừa qua, mặc dù bị ảnh hưởng bởi các biện pháp phòng dịch ở cả Việt Nam và Nhật Bản, kim ngạch thương mại hai bên vẫn tăng trưởng 6,4% trong 10 tháng đầu năm 2021.

Hiện nay, Việt Nam đã chuyển sang giai đoạn thích ứng an toàn, linh hoạt, kiểm soát hiệu quả dịch Covid-19. Nhật Bản cũng vừa nới lỏng các biện pháp phòng dịch, mở cửa trở lại từ ngày 08/11/2021 và công bố gói kích thích kinh tế cao kỷ lục, lên tới 490 tỷ USD.

Q.N (t/h)