Công ty cổ phần Chứng khoán MB (MBS) dẫn số liệu từ Ngân hàng Nhà nước (NHNN) cho biết, tính đến ngày 30/10, dư nợ tín dụng toàn hệ thống đã tăng khoảng 15% so với cuối năm 2024 và được dự báo có thể đạt 19–20% vào cuối năm nay. Trong cuộc họp báo thường kỳ quý III/2025, NHNN cũng nhận định, mức tăng tín dụng năm 2025 hoàn toàn có khả năng chạm ngưỡng 19–20%, nhờ đà tăng mạnh suốt ba quý đầu năm và triển vọng tiếp tục cải thiện khi cơ quan quản lý tiến tới bỏ cơ chế cấp room tín dụng từ năm 2026.

Việc xóa bỏ room tín dụng được kỳ vọng giúp các ngân hàng chủ động hơn trong xây dựng kế hoạch tăng trưởng hằng năm. Tuy nhiên, lãnh đạo nhiều nhà băng thừa nhận, khi không còn “vành đai an toàn” do NHNN phân bổ, mỗi ngân hàng sẽ phải tự xác định “điểm an toàn” của mình, đồng nghĩa với việc chịu trách nhiệm lớn hơn trước cổ đông và cơ quan quản lý. Room tín dụng vì thế không chỉ dựa vào tiềm lực vốn, mà còn phụ thuộc sâu vào năng lực quản trị rủi ro của từng ngân hàng.

Ảnh minh hoạ
Ảnh minh hoạ

TS. Nguyễn Quốc Hùng, Tổng thư ký Hiệp hội Ngân hàng Việt Nam cho rằng, lâu nay hạn mức tín dụng được xem như chốt chặn quan trọng để đảm bảo an toàn hoạt động. Khi cơ chế này được bãi bỏ, không ít ngân hàng có thể gặp khó trong lần đầu tự xây dựng kế hoạch tăng trưởng tín dụng phù hợp. Những năm gần đây, hệ thống ngân hàng đã phát triển đáng kể về quản trị rủi ro, từ xây dựng xếp hạng tín dụng nội bộ cho đến áp dụng Basel II, Basel III. NHNN cũng ban hành nhiều quy định mới, trong đó có Thông tư 14/2025/TT-NHNN (30/6/2025) quy định tỷ lệ an toàn vốn, kèm theo các bộ đệm vốn như bộ đệm bảo toàn, bộ đệm phản chu kỳ và bộ đệm cho tổ chức quan trọng hệ thống. Đây được xem là nền tảng quan trọng để tiến tới bãi bỏ cơ chế phân bổ hạn mức tín dụng.

Trên thực tế, để đạt mục tiêu tăng trưởng kinh tế 10% mỗi năm từ 2026 và duy trì liên tục đến 2045, nền kinh tế cần một lượng vốn khổng lồ. TS. Nguyễn Tú Anh, Giám đốc Nghiên cứu Chính sách Trường Đại học VinUni phân tích, tăng trưởng cao đòi hỏi nhiều yếu tố, nhưng vốn vẫn đóng vai trò trung tâm. Với mục tiêu tăng trưởng thực 10% giai đoạn 2026–2030, cộng thêm khoảng 3% lạm phát, tăng trưởng danh nghĩa sẽ vào khoảng 13%. Để đáp ứng mức này, tín dụng thông thường phải tăng cao hơn GDP danh nghĩa khoảng 3 điểm phần trăm, tức cần đạt khoảng 15%/năm trong 5 năm tới. Như vậy, quy mô tín dụng sẽ phải tăng gấp đôi, kéo theo sự mở rộng tương ứng của tổng tài sản và vốn chủ sở hữu của các ngân hàng.

Ông Quản Trọng Thành, Giám đốc Khối Phân tích Maybank Securities Vietnam nhận định, tỷ lệ tín dụng/GDP của Việt Nam đang ở mức cao, khoảng 134%, cho thấy vai trò đặc biệt của ngân hàng trong bảo đảm nguồn vốn cho nền kinh tế. Trong ngắn hạn, động lực cho vay dự kiến đến từ hạ tầng và năng lượng – những lĩnh vực có quy mô đầu tư còn khiêm tốn trong những năm qua nhưng sẽ bứt tốc mạnh mẽ. Theo tính toán của Bộ Tài chính, để đạt mục tiêu tăng trưởng GDP 10%, tổng vốn đầu tư cần khoảng 1.400 tỷ USD trong 5 năm tới, tức bình quân 280 tỷ USD/năm. Trong đó, vốn FDI chỉ khoảng 24–30 tỷ USD, còn lại hơn 250 tỷ USD phải đến từ khu vực trong nước, bao gồm hệ thống ngân hàng.

Tuy nhiên, Fitch Ratings đưa ra cảnh báo, tốc độ tăng trưởng tín dụng cao có thể làm gia tăng rủi ro hệ thống, nhất là trong bối cảnh Chính phủ dự kiến bãi bỏ cơ chế room tín dụng áp dụng nhiều năm qua. NHNN đang hoàn thiện lộ trình triển khai từ năm 2026, nhằm phục vụ mục tiêu tăng trưởng 8% trong năm nay và 10% trong giai đoạn 5 năm tới. Đi kèm với đó, NHNN cũng yêu cầu các tổ chức tín dụng tập trung vốn vào sản xuất – kinh doanh, các lĩnh vực ưu tiên và động lực tăng trưởng của nền kinh tế, đồng thời mở rộng cho vay tiêu dùng nhưng kiểm soát chặt chẽ tín dụng vào các lĩnh vực rủi ro.

Phương Thảo(t/h)