DN hưởng lợi từ chính sách
Sau 30 năm mở cửa thu hút đầu tư nước ngoài (ĐTNN), Việt Nam đã thu hút trên 24.000 dự án FDI. Khu vực DN có vốn ĐTNN đã đóng góp đáng kể cho phát triển kinh tế - xã hội. Số thu NSNN từ khu vực DN có vốn ĐTNN luôn tăng trưởng ổn định, năm 2016, chiếm 19% tổng thu NSNN. Năm 2016, DN có vốn ĐTNN đóng góp 18,59% trong GDP của Việt Nam và giải quyết việc làm cho khoảng 4 triệu lao động.
Số nộp vào NSNN của khu vực DN có vốn ĐTNN tăng nhanh qua các năm cho thấy khu vực này đóng góp ngày càng nhiều vào phát triển kinh tế - xã hội trong nước; tuy nhiên, những đóng góp hiện nay vẫn còn thấp, chưa tương xứng với nguồn tài nguyên sử dụng và việc đảm bảo môi trường. Mặc dù các chính sách về ưu đãi thuế TNDN đang khá thuận lợi cho DN và mặt bằng thuế suất của Việt Nam khá thấp so với các quốc gia khác
Tại Hội thảo chuyên đề “Ưu đãi đầu tư, giao dịch liên kết: Thực trạng và giải pháp”, Bộ KH&ĐT và Bộ Tài chính đã cập nhật và chia sẻ với các DN về những góc nhìn và định hướng của các chính sách ưu đãi đầu tư, cũng như thực trạng và giải pháp của giao dịch liên kết tại Việt Nam.
Ưu đãi đầu tư, tập trung vào các chính sách thuế, ngành nghề, địa bàn, thủ tục cấp phép đầu tư thuận lợi - là một trong những quan tâm hàng đầu của các nhà đầu tư nước ngoài khi thực hiện hoạt động đầu tư trực tiếp tại Việt Nam. Đặc biệt, những năm gần đây, với sự nỗ lực trong công tác quản lý thuế, quản lý các giao dịch liên kết của Chính phủ Việt Nam, nhiều chính sách mới đã được ban hành và có những tác động tích cực nhất định đến hoạt động đầu tư của nhiều DN tại Việt Nam.
Ông Thomas McClelland, Chủ tịch Tiểu ban Thuế và chuyển giá - Phòng Thương mại và Công nghiệp châu Âu (EuroCham), Tổng giám đốc Công ty Tư vấn thuế Deloitte Việt Nam, chia sẻ: “Giao dịch giữa các bên liên kết là một phần không thể thiếu trong thương mại toàn cầu. Điều này dẫn tới quá trình cân bằng lợi nhuận mang tính quốc tế, thông qua những khuyến nghị trong chương trình chống “Xói mòn cơ sở thu thuế và chuyển lợi nhuận” (BEPS) của Tổ chức Hợp tác và phát triển kinh tế (OECD), mà các quy định ban hành gần đây về giá chuyển nhượng của Việt Nam, về cơ bản là nhất quán với thông lệ quốc tế”.
Tuy nhiên, theo ông Thomas McClelland, có một số điểm khác biệt trong quy định ở Việt Nam dường như nghiêm ngặt hơn, ví dụ khống chế chi phí lãi vay được trừ hay một số nội dung khác cần làm rõ. Nếu có một số thỏa thuận trước về giá được chấp thuận thì sẽ tạo nên tính tích cực cho môi trường đầu tư, đồng thời sẽ mang lại lợi ích cho cả người nộp thuế cũng như Chính phủ để đạt được sự chắc chắn của các khoản nợ thuế.
Kiểm soát DN “lỗ giả, lãi thật”
Ông Bùi Ngọc Tuấn, Phó tổng giám đốc Tư vấn thuế, phụ trách Dịch vụ thuế DN và hải quan, cho biết: “Trong tiến trình hội nhập quốc tế, việc thay đổi chính sách thuế và hệ thống các ưu đãi đầu tư là một trong các điều kiện thu hút đầu tư nước ngoài tốt nhất. Chính phủ vẫn đang tiếp tục thay đổi nhiều thể chế, chính sách theo hướng tích cực và minh bạch, nhằm tạo điều kiện thuận lợi nhất cho các nhà đầu tư nước ngoài vào Việt Nam, tăng cường khả năng cạnh tranh quốc gia trong khu vực”.
Để việc thu hút, quản lý vốn ĐTNN có hiệu quả, Cục Tài chính DN (Bộ Tài chính) đề nghị Bộ KH&ĐT rà soát, đánh giá chính sách ưu đãi đầu tư hiện nay để nghiên cứu, đề xuất cơ chế, chính sách thu hút đầu tư và cơ chế quản lý đối với khu vực DN có vốn ĐTNN cho giai đoạn tới.
Theo đó, thu hút vốn ĐTNN vào những ngành cần tăng tỷ trọng ĐTNN như đầu tư vào kết cấu hạ tầng giao thông, vật liệu mới, linh kiện điện tử, phần mềm, viễn thông, du lịch, xử lý chất thải, nước thải, khí thải... Không tiếp nhận hoặc hạn chế tối đa những dự án ĐTNN sử dụng công nghệ thấp, tiêu hao năng lượng, gây ô nhiễm môi trường.
Mặt khác, tiếp tục nâng cao vai trò và hiệu quả quản lý nhà nước đối với khu vực ĐTNN; rà soát, đánh giá để hoàn thiện, sửa đổi cơ chế phối hợp của các sở, ban, ngành, địa phương trong việc cấp phép và quản lý các dự án ĐTNN.
Ngoài ra, cần có cơ chế ràng buộc các DN có vốn ĐTNN đào tạo đội ngũ lao động có tay nghề cao, chuyển giao công nghệ, sử dụng các sản phẩm phụ trợ của 7 DN Việt Nam để tăng tỷ lệ nội địa hóa sản phẩm của DN có vốn ĐTNN.
Cục Tài chính DN cũng đề nghị Bộ KH&ĐT xây dựng, hoàn thiện hệ thống cơ sở dữ liệu, thông tin đồng bộ, thông suốt về DN có vốn ĐTNN để các cơ quan trung ương, địa phương có thể truy cập và kết xuất được tất cả các thông tin liên quan đến DN có vốn ĐTNN để phục vụ công tác tổng hợp; từ đó giúp công tác đánh giá, giám sát được hiệu quả, kịp thời. Phải có cơ chế kiểm soát để hạn chế các DN có vốn ĐTNN lỗ lũy kế, lỗ mất vốn, nhưng vẫn tiếp tục đầu tư mở rộng để được hưởng ưu đãi thuế.
Anh Đức