Mở màn chiến dịch ngày 13-3-1954, quân ta đã chiếm giữ Him Lam, Độc Lập, Bản Kéo, địch mất 3 trung tâm đề kháng quan trọng nhưng tập đoàn cứ điểm vẫn còn trên một vạn quân và hơn 30 vị trí. Phần lớn các vị trí đều tập trung giữa cánh đồng, trận địa bằng phẳng địch có thể phát huy ưu thế về pháo binh và máy bay trong các trận đánh. Trận địa của ta tiến dần ra cánh đồng Mường Thanh, trước hết phải đào đường hào, đến cuối tháng 3-1954, ta đã đào hơn 100 km chiến hào cùng hàng nghìn hầm, hố.


Đồi A1, chiến trường ác liệt trong chiến dịch Điện Biên Phủ

Chiều 30-3-1954, quân ta mở đợt tiến công thứ hai nhằm mục đích đánh chiếm các điểm cao phía đông, các cứ điểm phòng ngự then chốt của phân khu trung tâm. Nếu đch để mất điểm cao này thì chúng không thể giữ được Tập đoàn cứ điểm, vì vậy chúng đã xây dựng các lô cốt cố thủ, các hầm ngầm, biến mỗi ngọn đồi là một pháo đài.

Trước đây quân đội ta tránh những nơi địch mạnh, còn tại Điện Biên Phủ ta đã tập trung đại bộ phận quân chủ lực tấn công vào tập đoàn cứ điểm mạnh nhất của địch. Chủ lực ta từ trước đến nay thường thu gọn những cuộc chiến đấu trong khoảng thời gian một đêm rồi rút về căn cứ tương đối an toàn ở phía sau nghỉ ngơi, củng cố. Đêm tối giúp ta hạn chế một phần ưu thế tuyệt đối của địch về máy bay pháo hạng nặng và xe thiết giáp.

Tấn công đợt hai này, đánh vào khu trung tâm của Tập đoàn cứ điểm, muốn chiến thắng một kẻ địch mạnh như vậy không thể chỉ hạn chế cuộc chiến đấu trong một đêm. Quân ta sẽ  chiến đấu với địch trong lúc ta biết chúng sẵn sàng đón đợi cuộc tấn công của ta, phải chiến đấu với kẻ địch trên mỗi địa hình bằng phẳng không những từ đêm sang ngày mà từ ngày này sang ngày khác, vì từ tấn công đợt hai quân ta đã chuyển sang đánh trận địa.

Pháo binh ta bắn phá dồn dập vào Sở chỉ huy Đờ Cát. Cả dãy đồi phía đông mờ mịt khói đạn. Trận đánh điểm cao 20-7 diễn ra có 45 phút, quân ta chiếm lĩnh toàn bộ. Tại đồi E và đồi D1, quân ta đột phá xong và làm chủ hai đồi này. Trong bốn điểm cao bị tấn công, địch đã mất hoàn toàn ba điểm cao. Pháo binh địch chịu tổn thất rất lớn ngay từ đêm 30 rạng ngày 31-3, 5 khẩu pháo 105 ly, 1 khẩu pháo 155ly, 23 khẩu cối 120 ly bị phá hủy. Chỉ riêng danh sách quân nhân chuyên nghiệp cần thả dù tăng viện ngay, đầu sổ là pháo thủ vì các trận địa pháo của địch bị ta đánh phá, nhiều pháo thủ chết và bị thương. Trong khi đó những hướng khác quân ta dùng hết bộc phá mang theo vẫn chưa mở được bãi rào dây thép gai dầy đặc của địch. Riêng tại đồi A1, cứ điểm quan trọng nhất của tấn công lại chưa được lệnh nổ súng vì đường dây điện thoại bị pháo địch bắn đứt. Cuối cùng chỉ huy đánh đồi A1 đã tự động hạ lệnh cho toàn bộ hỏa lực của trung đoàn nổ súng và các đơn vị bộ binh phá hàng rào. Trận đánh đồi A1 ác liệt ngay từ đầu, bất chấp hàng rào lửa của địch, dù người trước đã ngã người sau vẫn tiến lên. Các mũi thọc sâu của ta gặp khó khăn, không phát triển được trong tung thâm. Dựa vào một hầm ngầm, địch dồn vào cố thủ, kéo dài trận đánh. Đến nửa đêm bước sang 31-3, tiểu đoàn đánh cứ điểm A1 đã thương vong nặng, đuối sức và chỉ huy trung đoàn 174 đã ra lệnh cho tiểu đoàn dự bị bước vào chiến đấu. Cho đến sáng 31-3 quân ta chưa chiếm được đồi A1 và suốt ngày 31-3 địch vẫn chiếm hơn hai phần ba đồi A1. Chiều 31-3, trung đoàn 102, đội dự bị của mặt trận phía đông được lệnh ra quân thay thế trung đoàn 174, tiếp tục tấn công tiêu diệt cứ điểm A1. Đêm 1-4, cuộc tiến công lần thứ ba vào đồi A1, lần này hoàn toàn do trung đoàn 102 đảm trách. Sáng hôm sau và ngày hôm sau nữa địch vẫn trụ bám căn cứ A1. Cuộc tấn công quy mô lớn vào các ngọn đồi phía đông đã giành một số thắng lợi nhưng mục đích đề ra quân ta chưa hoàn thành.

Tấn công và bao vây là hai nhiệm vụ quan trọng nhất của quân ta ở Điện Biên Phủ. Ta là lực lượng bao vây, đằng sau ta là vùng căn cứ an toàn rộng mênh mông. Còn hơn một vạn tên địch trong Tập đoàn cứ điểm bị thu hẹp dần, đường hào bò vào sát đường băng, máy bay không còn hạ cánh, cất cánh được nữa, địch chỉ còn con đường tiếp tế và tăng viện duy nhất là thả dù. Sân bay không còn dùng cho máy bay nhưng với địch là bãi đáp an toàn, thả dù hàng và quân tiếp viện nhảy dù. Ta uy hiếp, sân bay bằng mọi loại pháo cũng chưa triệt để bằng mấy phía phải đào hào vào tận sân bay, sẵn sàng tiêu diệt những tên địch mò ra nhặt hàng và lính dù tăng viện, mới có thể vô hiệu hóa bãi đáp.

Đồi A1, cứ điểm quan trọng trong hệ thống phòng thủ phía đông

của Tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ. Trong ảnh: Du khách nước ngoài

tham quan di tích Đồi A1

Ban ngày địch cho quân lấp hào có chiến xa bảo vệ, đêm địch rót pháo vào các đầu đường hào. Đào hào rất khó tránh thương vong nhất là vào sâu Tập đoàn cứ điểm, đào dưới hàng rào giây thép gai nhưng đây là đòn chí mạng, dồn địch vào bước đường cùng, Tập đoàn cứ điểm mỗi bề chỉ còn 2km và còn thu hẹp, vòng vây càng thắt chặt. Mỗi ngày địch ở Điện Biên Phủ cần 295 tấn hàng các loại nhưng không quân Pháp chỉ lo được tối đa là 175 tấn, chưa nói thả dù lạc sang trận địa ta khoảng trên 15%. Cao xạ pháo vào sát Tập đoàn cứ điểm và buộc máy bay phải bay cao. Từ tầm cao 700m thả dù khá trúng nhưng khi phải bay cao 2800m tránh đạn cao xạ, thả dù hàng sang trận địa ta ngày một nhiều, quân tăng viện nhẩy dù có đêm sang trận địa ta 12 tên. Đại tá Đờ Cát được thăng tướng ngày 15-4-1954, lon tướng được đóng hộp, thả dù xuống Tập đoàn cứ điểm cho Đờ Cát nhưng "không may” lại rơi vào trận địa ta. Phi công Mỹ và phi công Pháp một số tên từng chiến đấu trong chiến tranh chế giới lần thứ hai, đã phải thừa nhận đạn cao xạ pháo của Việt Minh có lúc dầy đặc còn hơn pháo cao xạ của Đức. Phi hành đoàn của Mỹ không nói được tiếng Pháp và phần lớn nhân viên các cơ sở không quân Pháp lại không nói được tiếng Anh. Việc liên lạc giữa hai bên rất khó khăn khi quanh thung lũng Điện Biên Phủ có 30, 40 máy bay thả dù và ném bom, bắn phá trận địa cao xạ pháo. Có một sự nhầm lẫn, đêm 12 rạng sáng 13-4 phi công Mỹ đã thả dù hàng xuống trận địa của Việt Minh vì tưởng là Tập đoàn cứ điểm. Các thứ hàng thả dù ta thu được đều hết sức cần thiết, thuốc kháng sinh, huyết thanh khô, cồn, xăng dầu, bánh mì, đồ hộp thế nhưng vô cùng quý giá vẫn là 800 viên đạn pháo 105 ly của Mỹ. Đạn pháo 105 ly của Mỹ có ngòi nổ chậm xuyên thủng mọi công sự, có sức tàn phá hơn đạn pháo 105 ly của ta. Theo thống kê của Pháp thì chí ít cũng có khoảng 3.500 quả đạn 105 ly, 4000 đạn 75ly và 7000 quả súng cối đã thả nhận xuống trận địa Việt Minh trong suốt gần hai tháng cầm cự, chống trả với Việt Minh.

Trên mấy ngọn đồi phía đông, sang tuần lễ thứ ba của cuộc tiến công đợt hai, địch vẫn pháo kích, vẫn muốn chiếm lại mấy ngọn đồi đã mất nhưng ta vẫn giữ vững. Có đồi địch chiếm lại một nửa rồi ta lại tăng quân, lại làm chủ. Riêng đồi A1 địch vẫn chiếm gần hết còn ta chỉ chiếm mỏm thè lè. Đồi A1 có hầm ngầm rất kiên cố, chịu đựng mọi loại pháo hạng nặng, có lúc địch trên đồi biến mất và vào lúc đó pháo của địch bắn rất trúng vào đồi, rồi khi pháo của địch im bặt, địch lại xuất hiện. Đã hai lần địch huy động một lực lượng lớn từ Mường Thanh với sự yểm hộ của hàng chục khẩu pháo địch chiếm lại mỏm thè lè, nhưng cả hai lần ta phát hiện từ sớm và kịp thời phá tan đội hình chiến đấu của địch. Mỗi lần địch phản kích thất bại, trận địa tiến công của ta trên đồi A1 lại được đẩy lên phía trước một ít nhưng rồi địch lại tập trung lực lượng chiếm lại. Cứ thế từng ngày, từng giờ, cuộc chiến đấu giằng co trên đồi A1, ta phải chiến được đồi A1 mới giải quyết dứt điểm tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ. Mỗi thước đất trên đồi A1 ít nhất cũng có một tên địch bỏ mạng và cũng thấm máu chiến sĩ ta. Tư lệnh đại đoàn 316 đã đề nghị Bộ Chỉ huy Mặt trận đào đường hào sâu vào lòng đồi A1, dùng thuốc nổ phá sập hầm ngầm. Bộ Chỉ huy mặt trận nhất trí với kế hoạch và một phân đội công binh của Bộ đã đến đại đoàn 316 để phối hợp đào đường hầm, thời gian ít nhất cũng 10 này. Đào đường hầm địch ở bên trên, địch vẫn tìm mọi cách chiếm cả đồi A1, giữ bí mật cực khó. Đào vào bên trong năm, sáu thước, thiếu không khí, người khỏe cũng chỉ đào được khoảng 15, 20 phút rồi lại rút ra, người khỏe vào, đất đóng bao chuyển ra sau. Cứ nghĩ đến những hy sinh hai, ba tuần lễ qua trên đồi A1 càng thấy bằng mọi cách phải đưa khối thuốc nổ 1.000kg vào tới hầm ngầm để thanh toán nơi cố thủ của địch.

Cuộc chiến đấu chưa kết thúc khi mùa mưa đã đến, mưa nhiều hơn nắng, chiến hào ngập nước, lầy lội, nhất là đường hào trục sâu ngập đầu người, rộng đủ để các loại pháo 75ly, súng cối 120 ly và cáng thương binh vận chuyển, khi mưa tầm tã như trút nước, có quãng hào trục như con suối.