Thiếu chế tài thu hồi giấy phép đối với hồ sơ giả mạo và gian lận
Theo báo cáo rà soát, Luật An toàn thực phẩm (ATTP) hiện hành mới chỉ quy định hai trường hợp phải thu hồi tại Điều 34 và 55, bao gồm: Thu hồi Giấy chứng nhận cơ sở đủ điều kiện ATTP và Thu hồi đối với thực phẩm không bảo đảm an toàn. Tuy nhiên, luật lại chưa ghi nhận cơ chế thu hồi đối với các loại giấy phép quan trọng khác như: Giấy tiếp nhận đăng ký bản công bố sản phẩm; Giấy xác nhận nội dung quảng cáo; hay việc dừng hiệu lực Quyết định chỉ định cơ sở kiểm nghiệm.
Thực tế quản lý cho thấy, một "kẽ hở" lớn khi nhiều hồ sơ công bố sản phẩm được xây dựng dựa trên giấy tờ giả mạo, không trung thực, hoặc sản phẩm thực tế là hàng giả, chứa chất cấm. Trong những trường hợp này, cơ quan quản lý hiện không có đủ cơ sở pháp lý để thu hồi Giấy tiếp nhận đăng ký bản công bố sản phẩm hoặc gỡ bỏ thông tin trên hệ thống điện tử. Điều này làm giảm tính nghiêm minh trong thực thi pháp luật và gây khó khăn cho công tác hậu kiểm.
Trước tình trạng sản xuất thực phẩm chức năng giả, thực phẩm bổ sung kém chất lượng diễn biến phức tạp thời gian qua, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành các Công điện và Chỉ thị trong tháng 4 và tháng 5/2025, yêu cầu rà soát vướng mắc pháp lý. Bộ Y tế nhấn mạnh sự cần thiết phải giao thẩm quyền cho Chính phủ quy định việc tạm dừng tiếp nhận và giải quyết hồ sơ đăng ký mới đối với các đơn vị đang có vi phạm, nhằm tạo tính răn đe.

Bất cập trong phân công trách nhiệm và hạ tầng quản lý dữ liệu
Một hạn chế lớn khác được chỉ ra là sự chồng chéo trong phân công trách nhiệm quản lý nhà nước. Việc phân chia quản lý theo ngành hàng giữa Bộ Y tế, Bộ Nông nghiệp và Môi trường, và Bộ Công Thương (quy định tại các Điều 62, 63, 64) dẫn đến thiếu sự thống nhất. Đặc biệt, đối với công tác phòng chống thực phẩm giả, luật giao Bộ Công Thương chủ trì nhưng thiếu quy định về cơ chế phối hợp với các bộ khác, khiến việc quy trách nhiệm chính khi xảy ra sự cố gặp nhiều khó khăn, ảnh hưởng đến quyền lợi người tiêu dùng.
Về hạ tầng kỹ thuật, Việt Nam hiện chưa hoàn thiện hệ thống cơ sở dữ liệu quốc gia về thực phẩm để quản lý liên thông từ khâu đăng ký, xuất nhập khẩu đến thanh tra, giám sát. Hệ thống cảnh báo nhanh và cảnh báo sự cố an toàn thực phẩm quốc gia cũng chưa được thiết lập. Ngoài ra, các quy định về điều kiện, tiêu chuẩn đối với hệ thống cơ sở kiểm nghiệm (cả nhà nước và tư nhân) vẫn còn bỏ ngỏ, gây lúng túng cho công tác xác định đơn vị kiểm nghiệm được chỉ định.
Đáng chú ý, khung pháp lý hiện hành mới chỉ quy định trách nhiệm của người sản xuất, kinh doanh mà chưa ràng buộc rõ ràng quyền và nghĩa vụ của tổ chức, cá nhân đứng tên công bố sản phẩm. Đồng thời, việc thiếu quy định bắt buộc về truy xuất nguồn gốc thông qua mã vạch (Barcode) hay mã QR trên bao bì cũng là rào cản lớn trong việc kiểm soát dòng chảy hàng hóa trên thị trường.
Thành Nam























