Nhóm ngành công nghiệp chế biến chế tạo duy trì được tăng trưởng ổn định, các ngành công nghiệp chủ lực như: điện tử, dệt may, da giày, đồ gỗ... tăng trưởng ở mức cao, là yếu tố chính đóng góp vào phát triển của ngành công nghiệp; tạo thêm nhiều việc làm cho xã hội, nâng thứ hạng về năng lực cạnh tranh của công nghiệp Việt Nam.
Mặc dù vậy, khi thế giới biến động, đơn hàng xuất khẩu giảm, ngay lập tức công nghiệp chế biến chế chế tạo bị ảnh hưởng. Theo số liệu của Tổng cục Thống kê, quý I/2023, chỉ số sản xuất công nghiệp (IIP) ước tính giảm 2,2% so với cùng kỳ năm trước (cùng kỳ năm 2022 tăng 6,8%). Trong đó, công nghiệp chế biến, chế tạo vốn là một đầu tàu tăng trưởng đã giảm 0,37%, làm giảm 0,1 điểm phần trăm vào mức tăng trưởng chung của toàn nền kinh tế.
Điều đó cho thấy, công nghiệp và công nghiệp chế biến chế tạo nước ta phụ thuộc khá nhiều vào thị trường thế giới; nếu không nhanh chóng khắc phục, sẽ giảm sức hút FDI và con đườg trở thành công xưởng thế giới của Việt Nam sẽ dài hơn. Nhưng đây cũng có thể là cơ hội thúc đẩy sự chuyển biến thứ hai trong xây dựng chính sách xây dựng một nền công nghiệp tự chủ.
Các chuyên gia cho rằng, bên cạnh nỗ lực của Bộ Công Thương, cần có chính sách phát triển nguồn nhân lực toàn diện hơn để nâng cao tính tự chủ của công nghiệp. Cụ thể, thông qua các chương trình phát triển công nghiệp, Nhà nước thực hiện các hoạt động hỗ trợ phát triển nguồn nhân lực công nghiệp như: Hỗ trợ đào tạo nguồn nhân lực công nghiệp tại các trường đại học kỹ thuật, trường dạy nghề; hỗ trợ đào tạo thực địa tại các doanh nghiệp công nghiệp đối với các sinh viên, học viên kỹ thuật; hỗ trợ phát triển nguồn nhân lực đang làm việc tại các doanh nghiệp công nghiệp; hỗ trợ liên kết tìm kiếm việc làm và xây dựng quá trình đào tạo liên kết với nhu cầu của các doanh nghiệp công nghiệp; hỗ trợ mở rộng cơ sở vật chất và trang thiết bị nghiên cứu cần thiết để đào tạo nhân lực kỹ thuật các chuyên ngành công nghiệp; hỗ trợ tổ chức hợp tác giữa doanh nghiệp, viện nghiên cứu và trường học trong đào tạo nguồn nhân lực; hỗ trợ đào tạo chuyên gia đánh giá độ tin cậy trong sản xuất công nghiệp; hỗ trợ tổ chức các chương trình thu hút lao động kỹ thuật, chuyên gia nước ngoài trong các ngành công nghiệp; hỗ trợ thủ tục nhập cư, giấy phép lao động và trợ cấp chi phí phục vụ hoạt động của chuyên gia nước ngoài.
Các chương trình hỗ trợ này sẽ cộng hưởng với chính sách phát triển công nghiệp của chúng ta: Lựa chọn các ngành, các phân ngành dựa trên nền tảng những ngành công nghiệp đang có thế mạnh và đang phát triển, đồng thời phải dựa trên 3 tiêu chí:
1.Phát triển mạnh ở thị trường trong nước;
2.Tiếp cận được những công nghệ sản xuất hiện đại, đón đầu những xu thế công nghệ mới trong các ngành công nghiệp sinh học, điện tử, vật liệu…; và
3.Trong các ngành công nghiệp nền tảng ưu tiên phát triển, phải có những doanh nghiệp có tiềm năng để xây dựng thành những tập đoàn kinh tế đủ mạnh dẫn dắt các ngành công nghiệp và công nghiệp phụ trợ phát triển theo.
Cùng với phát triển thị trường, tiếp cận công nghệ mới, việc hỗ trợ các doanh nghiệp phát triển nguồn nhân lực giúp tăng năng suất lao động - đảm bảo chất lượng sản phẩm và thời gian giao hàng - đủ điều kiện kết nối vào chuỗi cung ứng, cũng là một trong những phương thức để Việt Nam tiến gần hơn tới mục tiêu xây dựng một nền công nghiệp tự chủ. Qua đó, ngày càng trở thành một tác nhân quan trọng thu hút FDI, đưa Việt Nam trở thành “công xưởng” sản xuất mới trên thế giới.
Với chiến lược Trung Quốc + 1, các doanh nghiệp sẽ mở rộng hoạt động ở các nước đang phát triển khác như Việt Nam, Ấn Độ, Indonesia, Brazil, Philippines, Malaysia. Theo một nghiên cứu của WB, Việt Nam có thể nhận được thêm 4% mức tăng vốn đầu tư khi các tập đoàn đa quốc gia tái phân bổ vốn đầu tư trong vài năm tới.
Quả thực, mấy năm gần đây, các tập đoàn lớn của thế giới, gồm Samsung, Apple, Foxconn, Dell, Intel, LG, Luxshare, Adidad, Nike, Heineken, Lego, Google, Goertek… đã đầu tư, tăng vốn đầu tư, mở thêm cơ sở sản xuất tại Việt Nam. Đầu năm 2023, Samsung quyết định nâng vốn đầu tư thêm 2 tỷ USD lên 20 tỷ USD để mở rộng sản xuất tại Việt Nam. Trước đó, Samsung đã tăng thêm 920 triệu USD mở rộng dự án Samsung Electro-Mechanics VN tại Thái Nguyên trong xây dựng nhà máy sản xuất mảng lưới bóng chíp bán dẫn và các linh kiện, phụ tùng cho các loại thiết bị viễn thông, thiết bị di động công nghệ cao và các loại sản phẩm điện và điện tử khác…
Trong cùng thời điểm nói trên, Tập đoàn Intel (Mỹ) cũng điều chỉnh bổ sung vốn đầu tư thêm 475 triệu USD vào Intel Products Việt Nam (IPV). Đây là khoản đầu tư mới bên cạnh khoản đầu tư hơn 1 tỷ USD trước đó của Intel để xây dựng cơ sở sản xuất thử nghiệm và lắp ráp chip hiện đại tại Khu Công nghệ cao TPHCM (SHTP) - dự án đã được công bố lần đầu vào năm 2006. Như vậy, tổng vốn đầu tư của Intel tại Việt Nam hiện tại đã lên tới hơn 1,5 tỷ USD. Khoản đầu tư bổ sung trị giá 475 triệu USD từ Intel giúp tăng cường sản xuất các sản phẩm 5G của Intel, bộ xử lý Intel Core với công nghệ Intel Hybrid và bộ xử lý Intel Core thế hệ thứ 10.
Luxshare và Foxconn, hai đối tác lắp ráp của Apple đang thử nghiệm sản xuất Apple Watch ở các nhà máy đặt tại các tỉnh phía Bắc. Đây là lần đầu tiên các thiết bị công nghệ kể trên được gia công ngoài Trung Quốc. Nhiều nhà sản xuất điện tử lớn như Google, Dell, Amazon cũng thiết lập dây chuyền tại Việt Nam để giảm phụ thuộc Trung Quốc.
T.S Lê Hồng Hiệp, nghiên cứu viên cao cấp tại Viện Nghiên cứu Đông Nam Á (ISEAS) ở Singapore, cho rằng các công ty quốc tế và thậm chí cả các công ty Trung Quốc, bắt đầu tìm cách chuyển dịch sản xuất sang Việt Nam - quốc gia tham gia hơn 10 FTAs, đặc biệt là các FTAs thế hệ mới như EVFTA, CPTPP, UKVFTA, RCEP…
Lê Xuân (t/h)