Ảnh minh hoạ
Hơn nữa, theo quy định hiện hành, thì thời điểm tính thuế BVMT đối với hàng hóa sản xuất bán ra, trao đổi, tặng cho là thời điểm chuyển giao quyền sở hữu hoặc quyền sử dụng hàng hóa; đối với hàng hóa NK, thời điểm tính thuế là thời điểm đăng ký tờ khai hải quan.
Quy định này là phù hợp và mang tính thống nhất đồng bộ với các sắc thuế gián thu khác như thuế giá trị gia tăng, thuế NK, thuế tiêu thụ đặc biệt. Tuy nhiên, tại khoản 4, Điều 9 Luật Thuế BVMT hiện hành quy định: “Đối với xăng, dầu sản xuất hoặc NK để bán, thời điểm tính thuế là thời điểm đầu mối kinh doanh xăng, dầu bán ra”.
Quy định khác biệt về thời điểm tính thuế BVMT đối với mặt hàng xăng, dầu thể hiện sự phù hợp với chế độ phân cấp NSNN tương ứng, nhưng đã phá vỡ tính liên hoàn, đồng bộ và tính thống nhất trong việc tổ chức quản lý thu thuế BVMT.
Tiếp theo, với các loại thuế khác, mức thu được tính theo tỷ lệ nhất định trên giá tính thuế. Theo đó, giá tính thuế càng cao thì mức thuế càng lớn. Tuy nhiên, thuế BVMT được tính theo mức thu tuyệt đối/trên số lượng đơn vị sản phẩm (Một lít xăng, dầu, một kg túi nilon…). Đồng thời, có khung trần tối thiểu, tối đa tiền thuế cho một đơn vị sản phẩm chịu thuế để chủ động xác định mức thuế phù hợp cho từng giai đoạn lịch sử cụ thể.
Điều đó phù hợp với đặc thù của loại thuế này và cũng phù hợp với thông lệ quốc tế. Tuy nhiên, mức thu cụ thể đối với một số mặt hàng chưa tương xứng với mức độ ô nhiễm gây ra như túi nilon cần được điều chỉnh cho phù hợp...
Để xây dựng dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Thuế BVMT, Bộ Tài chính đã đề nghị các địa phương thực hiện tổng kết, đánh giá và nêu vướng mắc phát sinh trong quá trình triển khai thực hiện. Bộ này cũng xây dựng hồ sơ và gửi lấy ý kiến một số bộ, ngành. Đồng thời, đăng trên trang thông tin điện tử của Chính phủ, Bộ Tài chính để lấy ý kiến của các tổ chức, cá nhân liên quan.
Mục tiêu sửa đổi, bổ sung lần này nhằm cải cách thuế BVMT, góp phần khắc phục tính thiếu đồng bộ của hệ thống chính sách, hướng đến tính minh bạch, thống nhất, hiệu quả, phù hợp với tiến trình hội nhập quốc tế.
Để khắc phục những tồn tại trước đây, Luật Thuế BVMT đã sửa đổi bổ sung các nội dung về phạm vi điều chỉnh, thời điểm tính thuế đối sản phẩm xăng dầu, biểu khung thuế BVMT đối với một số sản phẩm chịu thuế… sẽ góp phần khắc phục tính thiếu đồng bộ của hệ thống chính sách, đảm bảo chính sách được công khai, minh bạch, dễ hiểu và tạo điều kiện thuận lợi cho người nộp thuế.
Theo đó, đối với túi nilon sẽ điều chỉnh khung thuế từ 30.000 - 50.000 đồng/kg lên 40.000 - 80.000 đồng/kg. Việc điều chỉnh khung thuế BVMT đối với túi nilon là rất cần thiết, ngoài việc hạn chế tối đa những tác động tiêu cực đến môi trường, còn nhằm kiểm soát tốt hơn việc sản xuất túi nilon của các cơ sở sản xuất nhỏ lẻ, không đảm bảo chất lượng, không an toàn, tác động xấu đến sức khỏe cộng đồng dân cư.
Tuy nhiên, một vấn đề quan trọng đó là trên thực tế có nhiều sản phẩm, hàng hóa mà việc sử dụng có khả năng gây ô nhiễm môi trường nhưng lại chưa được đưa vào diện điều chỉnh của Luật Thuế BVMT, ví dụ như khí thải công nghiệp, thuốc lá, chất thải phóng xạ…
Thanh Bình