Máy bay B52 cháy trên bầu trời Hà Nội
Máy bay B52 cháy trên bầu trời Hà Nội

Tại sao B52 có nhiều động cơ, bay cao hơn 10km, bay xa hàng ngàn dặm, có máy bay hộ tống vòng trong vòng ngoài bảo vệ, có các máy bay F105, F4F, AD4 mang Sraike đánh phủ đầu đối phương mà vẫn bị ta bắn rơi? Ở các chiến trường khác, B52 chưa bị rơi tại chỗ, thế mà vào thủ đô Hà Nội chúng bị tên lửa phòng không Việt Nam bắn rơi khá nhiều. Chúng ta đã rút những kinh nghiệm đánh B52 ở các chiến trường Vĩnh Linh, Quảng Bình, Hải Phòng để viết thành cẩm nang bìa đỏ cho bộ đội phòng không bảo vệ Hà Nội.

 Pháo đài bay B52 có nhiều thế mạnh nhưng nó cũng bộc lộ nhiều điểm yếu: Khả năng cơ động kém, to xác, nặng nề, cồng kềnh, đường bay không ổn định. Khoét sâu vào chỗ yếu của B52, tên lửa phòng không Hà Nội đã đánh trúng, tỉ lệ máy bay chiến lược Mỹ bị bắn rơi là trên 12%. Ngày 29/12/1972, Mỹ đơn phương tuyên bố ngừng sử dụng B52 đánh Hà Nội và miền Bắc, quay lại Hội nghị ở Paris ở thế thua, xin rút quân xâm lược về nước.

Trận đánh B52 đêm ngày 16/4/1972, các lưc lượng tên lửa phòng không trên đất cảng Hải Phòng đánh không thắng. Cán bộ, chiến sĩ không khỏi lo lắng và băn khoăn vì không có B52 rơi tại chỗ, phía địch rất chủ quan và kiêu ngạo, coi thường lực lượng tên lửa phòng không của ta. Từ đó Mỹ nói B52 đánh vào Hà Nội chỉ là cuộc dạo chơi du lịch, an toàn trở về căn cứ. Nhưng khi B52 vào Hà Nội bị bắn rơi tại chỗ nhiều, tinh thần giặc lái hoang mang suy sụp, nhiều phi công phản chiến không ra trận, lầu Năm Góc và Nhà Trắng sợ quân lính thua trận bẽ mặt với nhân dân thế giới và nhân dân Việt Nam.

Chúng ta đã nghiên cứu rất kỹ chiến thuật của B52 khi đánh vào Hải Phòng. Trước hết, ta xác định hướng tập kích của B52 vào Hà Nội, xuất phát từ sân bay Thái Lan và sân bay Guam. Lấy các điểm kiểm tra là Ba Vì, ngã ba Việt Trì, Tam Đảo làm điểm chuẩn nên ta đã bố trí những tiểu đoàn hỏa lực mạnh, thiện chiến đón lõng có chiều sâu trên các đường bay ở các trận địa dã chiến, trận địa chốt, có tham số đường bay thích hợp để có các phương pháp điều khiển tên lửa khác nhau. Các tiểu đoàn hỏa lực đã chiến đấu rất quyết liệt, đánh từ 6-8 trận làm cho nhiều B52 bị rơi tại chỗ.

Máy bay B52 rơi bên làng hoa Ngọc Hà (Hà Nội)
Máy bay B52 rơi bên làng hoa Ngọc Hà (Hà Nội).

 Có người hỏi: Bên cạnh B52 co máy bay chiến lược và chiến thuật gây nhiễu cực mạnh như vậy, sao đài điều khiển tên lửa của ta vẫn bắt được B52?

Đúng như vậy, ta đã dùng nhiều phương tiện theo dõi, bắt B52 rất mưu trí và sáng tạo. Khi B52 còn ở không phận Lào ta đã theo dõi bằng mạng ra đa tình báo, vào đất liền dùng cả đài quan sát mắt để bắt B52 (bay đêm B52 có đèn), khi B52 vào 70-80m đài điều khiển tên lửa theo dõi B52 bằng các dải nhiễu của máy thu hạn chế phát sóng đài điều khiển để chống tên lửa Sraike. Khi B52 bay vào gần góc tà càng lên cao, sĩ quan điều khiển tra bảng để xác định cự ly của B52, khi đến cự ly nhất định B52 sẽ bay lệch ra khỏi trục cánh sóng nhiễu các khu mù (B52 bị hở bụng, hở sườn) đài điều khiển tên lửa nhất định sẽ bắt được B52. Các trắc thủ quay tay sẽ phát hiện được B52 bay trên nền dải nhiễu, chuyển phương pháp điều khiển từ ba điểm sang phương pháp bắn đón, bám sát tự động, chọn thời cơ phóng (thực hiện phương pháp đánh nhanh có chuẩn bị). Nhờ  cách đánh sáng tạo, độc đáo này, 10 máy bay B52 rơi tại đất Hà Nội.

Có người hỏi: Tên lửa Sam có cải tiến và nâng tầng không?

Trong chiến đấu Sam 2 bộc lỗ những nhược điểm chống nhiễu rãnh đạn, chống nhiễu rãnh mục tiêu kém. Nước bạn đã cải tiến nâng công suất của đạn tên lửa chứ không cải tiến nâng tầng. Khoa học kỹ thuật quân sự Liên Xô đã cải tiến Sam 2 làm tăng độ chính xác của nó, tăng khả năng chống nhiễu đạn, để đạn không rơi xuống đất.

Có người hỏi: Trong chiến dịch đánh B52, ta có bị bất ngờ không?

Nhìn toàn cục thì ta không bị bất ngờ nhưng trước 20 giờ ngày 18/12/1972 thì có bị bất ngờ nên một số đồng chí chỉ huy trưởng vắng mặt ở Sở chỉ huy. Rất may, các đồng chí cấp phó và kíp chiến đấu ở Sở chỉ huy vẫn sẵn sàng chiến đấu cao, bắn rơi B52 ngay đêm 18/12/1972.

Có người hỏi: Ta biết chắc chắn trước sau B52 cũng đánh vào Hà Nội mà tại sao chỉ để 2 trung đoàn tên lửa 261 và 257 bảo vệ Hà Nội?

Lúc ấy, lực lượng tên lửa bảo vệ Hà Nội rất mỏng. Năm 1967, ta bố trí 6 trung đoàn tên lửa nhưng vì phải chia sẻ lực lượng cho các chiến trường khác. Bộ còn định điều Trung đoàn tên lửa 261 vào chiến trường. Sau đó Bộ đồng ý với đề xuất của Quân chủng Phòng không – Không quân ở lại bảo vệ Hà Nội. Qua 12 ngày đêm, quân dân Hà Nội chiến đấu rất kiên cường, bắn rơi 34 pháo đài bay B52, có 16 chiếc rơi tại chỗ, tỉ lệ thất bại của B52 là trên 12%. Mỹ chịu thua, rút quân xâm lược về nước. Chúng ta thắng lớn cả 3 mặt trận: Quân sự, chính trị và ngoại giao.

Thực sự chiến dịch này, bộ đội Tên lửa Phòng không của ta tổn thất thế nào? Nếu cuộc chiến đấu kéo dài, ta có chịu nổi không?

 Trước chiến dịch, lực lượng tên lửa phòng không của ta có 14 Tiểu đoàn hỏa lực. Ngày 24/12/1972, Bộ điều 2 tiểu đoàn 72 và 81 từ Hải Phòng về Hà Nội, thành 16 tiểu đoàn. Trong chiến đấu có 6 Tiểu đoàn hỏa lực bị đánh, tổn thất dưới 1,5%. Sở dĩ ta tổn thất ít như vậy là nhờ phòng tránh tốt, nghi binh tốt, có trận địa giả, trận địa dã chiến, trận địa dự bị. Ta luôn chuẩn bị lực lượng, nghi binh thu hút địch, tên lửa ban ngày không đánh máy bay cường kích mà chỉ đánh B52 ban đêm (ban ngày Bộ giao cho không quân và cao xạ đánh). Đối với tên lửa Sraike, ta hạn chế phát sóng đài điều khiển, hạ cao thế, quay ăng ten đi một góc khi phát hiện địch phóng tên lửa Sraike, ta phóng giả tên lửa, nhờ thế mà hạn chế tối đa tên lửa Sraike của địch. Ta đánh B52 ở cự li thích hợp, đánh nhanh có chuẩn bị, nên hiệu quả rất cao.

Nếu Mỹ không bỏ cuộc, liệu ta còn đủ sức chiến đấu không? Lúc đó lực lượng tên lửa phòng thủ của ta còn rất mạnh, Bộ đang điều hàng chục Tiểu đoàn tên lửa phòng không từ Quân khu 4 ra, ngoài ra còn 2 trung đoàn tên lửa Sam3 (Petrora) chuyển binh chủng ở Liên Xô về. Tuy nhiên vì lý do nào đó đạn chưa về kịp. Đạn tên lửa Sam 2 gần hết, Bộ đã điều từ Quân khu 4 chuyển ra.

                                Đại tá Trần Xuân Khuyến 

                                                             Nguyên Trung đoàn trưởng trung đoàn 238 Anh hùng,  nguyên cán bộ tác chiến Bộ Tổng Tham mưu