Phó Thủ tướng Thường trực Chính phủ Trương Hòa Bình trình bày Báo cáo về tình hình thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2020 và 5 năm 2016-2020; dự kiến phương hướng, nhiệm vụ năm 2021. Ảnh: VGP
Phó Thủ tướng Thường trực Chính phủ Trương Hòa Bình trình bày Báo cáo về tình hình thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2020 và 5 năm 2016-2020; dự kiến phương hướng, nhiệm vụ năm 2021. Ảnh: VGP.

Báo cáo tóm tắt về  tình hình thực hiện kế  hoạch phát triển kinh tế  -  xã hội  năm 2020 và 5 năm 2016-2020; dự kiến phương hướng, nhiệm vụ thời gian tới, Phó Thủ tướng Thường trực Chính phủ Trương Hòa Bình cho biết:

Nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội năm 2020 và 5 năm 2016 - 2020 được thực hiện  trong bối cảnh có nhiều thuận lợi nhưng cũng không ít khó khăn, thách thức. Thực hiện các Nghị quyết, Kết luận của Đảng, Quốc hội về phát triển kinh tế- xã hội 5  năm 2016 - 2020 và hằng năm, Chính phủ đã chủ động ban hành các nghị quyết, chương  trình hành động cụ thể; xây dựng các phương án, kịch bản điều hành và quyết liệt chỉ đạo các cấp, các ngành, các địa phương tập trung triển khai thực hiện đồng bộ, hiệu quả các nhiệm vụ, giải pháp. Tinh thần chung trong chỉ đạo điều hành là quyết tâm xây dựng  Chính phủ kiến tạo phát triển, liêm chính, hành động quyết liệt, phục vụ nhân dân. 

Năm 2020, trước diễn biến phức tạp, nghiêm trọng của đại dịch Covid-19, hưởng  ứng Lời kêu gọi của Tổng Bí thư, Chủ tịch nước, Bộ Chính trị, Ban Bí thư, Quốc hội, Ủy  ban thường vụ Quốc hội, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đã kịp thời ban hành nhiều  kết luận, nghị quyết, chỉ thị và chỉ đạo các cấp, các ngành quyết tâm thực hiện "mục tiêu  kép": Vừa quyết liệt phòng chống dịch với tinh thần "chống dịch như chống giặc", vừa  tập trung phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm đời sống nhân dân; tập trung chỉ đạo  thực hiện các nhiệm vụ, giải pháp cụ thể để tháo gỡ khó khăn cho sản xuất kinh doanh, hỗ trợ người lao động, người dân gặp khó khăn; đẩy nhanh giải ngân vốn đầu tư công,  thúc đẩy tiến độ các dự án quan trọng quốc gia. Đồng thời, Chính phủ chú trọng chỉ đạo thực hiện các nhiệm vụ phát triển văn hóa, xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh, trật tự an toàn xã  hội; triển khai linh hoạt, hiệu quả các hoạt động đối ngoại và hội nhập quốc tế, quảng bá  hình ảnh đất nước Việt Nam an toàn, nhân văn, tốt đẹp. 

Nhờ sự vào cuộc quyết liệt của cả hệ thống chính trị, các cấp, các ngành và sự chung sức, đồng lòng, nỗ lực vượt bậc của cộng đồng doanh nghiệp và Nhân dân cả nước, chúng ta đã vượt qua nhiều khó khăn, thử thách và đạt được những thành tựu  rất quan trọng, khá toàn diện trên hầu hết các lĩnh vực, tạo nhiều dấu ấn nổi bật trong  năm 2020 và 5 năm 2016 - 2020.

Cả nước đã tập trung phòng chống, kiểm soát tốt dịch bệnh, tạo điều kiện  thuận lợi cho phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội. Trong khi đại dịch Covid-19 còn diễn  biến phức tạp trên toàn cầu, chúng ta đã sớm kiểm soát, khống chế được dịch bệnh. Tổ chức Y tế Thế giới, cộng đồng quốc tế đánh giá cao Việt Nam là quốc gia kiểm  soát tốt dịch bệnh, có cách làm đúng, kịp thời, hiệu quả, chi phí thấp. Thành công này  thể hiện sự quyết tâm cao, ý chí thống nhất, hành động quyết liệt của toàn Đảng, toàn  dân, toàn quân ta; thể hiện sức mạnh đoàn kết, truyền thống yêu nước, tinh thần  tương thân, tương ái của dân tộc; củng cố vững chắc niềm tin của Nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng, Nhà nước, khẳng định tính ưu việt của hệ thống chính trị và bản  chất tốt đẹp của chế độ ta.

Kinh tế vĩ mô ổn định, lạm phát được kiểm soát, chất lượng tăng trưởng  được nâng lên, các cân đối lớn của nền kinh tế được cải thiện. Tốc độ tăng trưởng  giai đoạn 2016 - 2019 bình quân 6,8%/năm. Mặc dù chịu ảnh hưởng nặng nề của dịch  bệnh, nhưng tăng trưởng cả năm 2020 đạt 2,91%; là mức tăng trưởng cao hàng đầu thế giới. Quy mô GDP tăng khoảng 1,4 lần so với năm 2015 (theo Quỹ Tiền tệ Quốc  tế, năm 2020 Việt Nam có thể trở thành nền kinh tế đứng thứ 4 ASEAN); GDP bình  quân đầu người năm 2020 ước đạt khoảng 2.750 USD. Tổng kim ngạch  xuất, nhập khẩu năm 2020 ước đạt 543,9 tỷ USD, xuất siêu 5 năm liên tiếp (năm 2020  ước đạt 19,1 tỷ USD). Thị trường nội địa được chú trọng; quản lý thị trường, phòng  chống buôn lậu, gian lận thương mại được tăng cường….

Các đột phá chiến lược được tập trung thực hiện và chúng ta đã đạt những kết quả tích  cực. Việt Nam đã hình thành hệ thống pháp luật khá đầy đủ, toàn diện; các loại thị trường vận  hành cơ bản thông suốt, bước đầu gắn kết với khu vực và quốc tế; chất lượng nguồn  nhân lực được cải thiện, tỷ lệ lao động qua đào tạo đạt 64,5%. Tiềm lực khoa học và  công nghệ của nước ta được tăng cường. Hệ sinh thái khởi nghiệp đổi mới sáng tạo quốc gia có  bước phát triển; chỉ số đổi mới sáng tạo toàn cầu (GII) của Việt Nam năm 2020 xếp  thứ 42/131, đứng đầu nhóm 29 quốc gia, nền kinh tế cùng mức thu nhập. Hệ thống kết  cấu hạ tầng kinh tế, xã hội Việt Nam được tập trung nguồn lực đầu tư; nhiều công trình, dự án  quan trọng đã được khởi công, xây dựng, hoàn thành, đưa vào sử dụng, tạo thêm năng  lực, sức cạnh tranh và diện mạo mới cho đất nước. 

Cơ cấu lại nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng đạt nhiều kết  quả. Vốn đầu tư công được tập trung cho những dự án cấp bách, trọng điểm, có tính kết nối, lan toả cao; giải ngân vốn đầu tư công được chỉ đạo quyết liệt; vốn đầu tư từ NSNN thực hiện năm 2020 đạt cao nhất trong giai đoạn 2011-2020. Cơ cấu lại các tổ chức tín dụng gắn với xử l nợ xấu được triển khai đồng bộ, hiệu quả hơn, bảo đảm  ổn định, an toàn hệ thống; tỷ lệ nợ xấu nội bảng ở mức dưới 3%. Việc sắp xếp lại, cổ phần hoá, thoái vốn thực chất hơn; hiệu quả hoạt động, năng lực cạnh tranh của nhiều  DNNN được nâng lên. 12 dự án yếu kém của ngành công thương được xử lý và đạt  kết quả bước đầu, một số dự án đã có lãi và giảm lỗ lũy kế; đưa 3 dự án ra khỏi danh  sách theo dõi, xử lý của Ban chỉ đạo.

Cơ cấu giữa các ngành và nội ngành tiếp tục chuyển dịch tích cực. Tỷ trọng  ngành khai khoáng giảm, tỷ trọng công nghiệp chế biến, chế tạo tăng nhanh; tỷ trọng  hàng xuất khẩu qua chế biến tăng từ 65% năm 2016 lên 85% năm 2020. Tập trung phát  triển nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, nông nghiệp sạch, hữu cơ; kinh tế hợp tác  và doanh nghiệp nông nghiệp phát triển mạnh; xây dựng nông thôn mới hoàn thành  trước thời hạn gần 2 năm; đến nay đã có khoảng 63% xã đạt chuẩn, vượt xa mục tiêu  đề ra (50%); xuất khẩu nông sản năm 2020 ước đạt trên 41 tỷ USD. Nhiều ngành dịch  vụ có tiềm năng, lợi thế, hàm lượng khoa học công nghệ cao phát triển nhanh. 

Phát triển văn hoá, xã hội đạt kết quả tích cực, an sinh xã hội cơ bản được  bảo đảm, đời sống nhân dân tiếp tục được cải thiện. Chính sách đối với người có công  với cách mạng được quan tâm thực hiện, đời sống người có công được nâng lên; đến nay  có gần 1,4 triệu người có công đang hưởng chế độ ưu đãi hàng tháng. Tỷ lệ hộ nghèo  theo chuẩn đa chiều giảm từ gần 10% năm 2015 xuống dưới 3% năm 2020. Diện bao  phủ bảo hiểm xã hội gấp hơn 1,3 lần so với năm 2015, chiếm gần 33% lực lượng lao  động. Hệ thống y tế dự phòng và mạng lưới y tế cơ sở được củng cố; triển khai nền tảng  hỗ trợ tư vấn khám chữa bệnh trực tuyến, từ xa, kết nối gần 30 bệnh viện tuyến trên với  1.200 cơ sở khám chữa bệnh trên toàn quốc. Tỷ lệ tham gia bảo hiểm y tế tăng từ 75%  năm 2015 lên 90,85% năm 2020. Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo được  tích cực triển khai; chất lượng giáo dục phổ thông, giáo dục đại học tiếp tục được nâng  lên. Trong bối cảnh dịch Covid-19, tổ chức kỳ thi tốt nghiệp THPT thành hai đợt, bảo  đảm nghiêm túc, công bằng và an toàn. Phát triển văn hóa, xây dựng con người Việt  Nam có những chuyển biến tích cực; các giá trị tốt đẹp của dân tộc được phát huy. Các  lễ kỷ niệm lớn, sự kiện quan trọng của đất nước được tổ chức trang trọng, thiết thực và  an toàn. Các chính sách dân tộc, tôn giáo, tín ngưỡng, người cao tuổi, trẻ em, gia đình,  bình đẳng giới và vì sự tiến bộ của phụ nữ được đẩy mạnh; thể thao thành tích cao có  bước tiến bộ. Đã trình Quốc hội phê duyệt Đề án tổng thể và Chủ trương đầu tư Chương  trình mục tiêu quốc gia phát triển KTXH vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi  giai đoạn 2021 - 2030. Chỉ số phát triển con người (HDI) được cải thiện, thuộc nhóm  nước có mức phát triển con người cao của thế giới, xếp hạng 117/189 quốc gia và vùng  lãnh thổ (năm 2019).

Quản lý tài nguyên, bảo vệ môi trường và ứng phó biến đổi khí hậu có  những chuyển biến rõ nét. Tập trung chỉ đạo kịp thời hỗ trợ khắc phục hậu quả, sớm ổn định đời sống và sản xuất của người dân vùng bị thiên tai, đặc biệt là bão lũ, sạt lở đất ở một số tỉnh miền Trung, Tây Nguyên vừa qua. Chấn chỉnh công tác cấp phép tài nguyên,  khoáng sản, ngăn chặn khai thác cát, sỏi trái phép. Phát hiện và xử lý nhiều vụ việc, cơ  sở gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng. Tập trung thực hiện cấp giấy chứng nhận  quyền sử dụng đất. Công tác phòng, chống, khắc phục hậu quả, ứng phó các sự cố thiên tai và cứu hộ, cứu nạn được chú trọng. Thực hiện hiệu quả các chương trình về ứng phó  với biến đổi khí hậu, tăng trưởng xanh và phát triển bền vững (nhất là vùng đồng bằng  sông Cửu Long). Chỉ số phát triển bền vững năm 2020 của Việt Nam tăng 39 bậc so với  năm 2016, xếp thứ 49/166 quốc gia và vùng lãnh thổ.

Hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước được nâng lên; cải cách hành chính  chuyển biến tích cực, môi trường kinh doanh được cải thiện; phòng chống tham  nhũng được chỉ đạo quyết liệt. Tổ chức bộ máy nhà nước tiếp tục được kiện toàn  tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả…Quốc phòng, an ninh được tăng cường, chủ quyền quốc gia được giữ vững;  đối ngoại và hội nhập quốc tế đạt nhiều kết quả quan trọng…

Về phương hướng, nhiệm vụ năm 2021 và thời gian tới, Phó Thủ tướng Trương Hòa Bình cho biết:

Năm 2021 có nghĩa đặc biệt quan trọng, là năm tổ chức Đại hội đại biểu toàn  quốc lần thứ XIII của Đảng, bầu cử Quốc hội khóa XV, là năm đầu tiên thực hiện Kế hoạch phát triển KTXH 5 năm 2021 - 2025 và Chiến lược phát triển KTXH 10 năm  2021 - 2030. Dự báo tình hình thế giới, khu vực tiếp tục diễn biến phức tạp, khó lường.  Hoà bình, hợp tác, liên kết phát triển vẫn là xu thế lớn nhưng cạnh tranh chiến lược  giữa một số quốc gia, đối tác lớn tiếp tục diễn ra gay gắt. Xung đột thương mại gia tăng  và những tác động tiêu cực của đại dịch Covid-19 có thể kéo dài, tiềm ẩn nhiều nguy  cơ về tài chính, tiền tệ, nợ công trên phạm vi toàn cầu và những thách thức lớn đối với  thương mại, đầu tư, tăng trưởng và các vấn đề xã hội.

Chỉ tiêu cụ thể đặt ra cho năm 2021 với 12 chỉ tiêu chủ yếu, trong đó: tổng sản  phẩm trong nước (GDP) tăng khoảng 6%; chỉ số giá tiêu dùng (CPI) bình quân khoảng  4%; tỷ trọng đóng góp của năng suất các nhân tố tổng hợp (TFP) vào tăng trưởng  khoảng 45-47%; năng suất lao động xã hội tăng khoảng 4,8%; tỷ lệ lao động qua đào  tạo khoảng 66% (trong đó tỷ lệ lao động qua đào tạo có bằng cấp, chứng chỉ khoảng  25,5%); tỷ lệ bao phủ bảo hiểm y tế khoảng 91%; tỷ lệ hộ nghèo giảm 1-1,5 điểm phần  trăm so với năm 2020; tỷ lệ che phủ rừng khoảng 42%...

Nhiệm vụ của năm 2021 và thời gian tới là rất nặng nề đòi hỏi các cấp, các  ngành, cộng đồng doanh nghiệp và nhân dân cả nước cần tiếp tục đổi mới tư duy, hành  động quyết liệt hơn, hiệu quả hơn, vượt qua khó khăn, biến thách thức thành cơ hội, tận  dụng tốt các thành tựu của Cách mạng công nghiệp lần thứ tư và xu hướng dịch chuyển đầu tư, thương mại, chuyển đổi số, sự phát triển các mô hình kinh doanh mới, sự thay  đổi phương thức sản xuất, tiêu dùng và giao tiếp trên toàn cầu… để thực hiện thành  công các mục tiêu, nhiệm vụ kế hoạch năm 2021, tạo nền tảng vững chắc cho việc thực  hiện các mục tiêu, định hướng chiến lược phát triển đất nước trong 5 năm, 10 năm tới  và hiện thực hoá khát vọng phát triển đến năm 2045 đưa Việt Nam trở thành nước phát  triển, thu nhập cao theo tinh thần các Nghị quyết của Đảng, Quốc hội.

 T.Nguyên (t/h)