Kinh tế thế giới gặp nhiều khó khăn, đã tiếp tục ảnh hưởng đến kim ngạch xuất nhập khẩu hàng hóa của Việt Nam trong tháng 4. Tổng kim ngạch xuất, nhập khẩu hàng hóa tháng 4 ước đạt 53,57 tỷ USD, giảm 7,7% so với tháng trước và giảm 18,8% so cùng kỳ năm trước.

Tính chung 4 tháng đầu năm, tổng kim ngạch xuất, nhập khẩu hàng hóa ước đạt 210,79 tỷ USD, giảm 13,6% so cùng kỳ năm trước (cùng kỳ tăng 16,6%), trong đó xuất khẩu giảm 11,8% (cùng kỳ tăng 17,1%); nhập khẩu giảm 15,4% (cùng kỳ tăng 16,1%). Cán cân thương mại hàng hóa 4 tháng đầu năm, ước tính xuất siêu 6,35 tỷ USD.

Kim ngạch xuất khẩu hàng hóa tháng 4 giảm 7,3% so tháng trước

Những khó khăn trong sản xuất và sự sụt giảm đơn hàng xuất khẩu trong quý I tiếp tục ảnh hưởng đến xuất khẩu hàng hóa trong tháng 4. Trong đó, kim ngạch xuất khẩu hàng hóa tháng 4, ước đạt 27,54 tỷ USD, giảm 7,3% so tháng trước và giảm 17,1% so cùng kỳ năm trước. Trong đó, khu vực kinh tế trong nước đạt 7,12 tỷ USD, giảm 8,6%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (kể cả dầu thô) đạt 20,42 tỷ USD, giảm 6,9%.

Tính chung 4 tháng đầu năm, kim ngạch xuất khẩu hàng hóa ước đạt 108,57 tỷ USD, giảm 11,8% so cùng kỳ năm trước (cùng kỳ tăng 17,1%). Trong đó, khu vực kinh tế trong nước đạt 28,58 tỷ USD, giảm 11%, chiếm 26,3% tổng kim ngạch xuất khẩu; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (kể cả dầu thô) đạt 79,99 tỷ USD, giảm 12,1%, chiếm 73,7%.

Trong 4 tháng, có 20 mặt hàng đạt kim ngạch xuất khẩu trên 1 tỷ USD, giảm 2 mặt hàng so cùng kỳ năm trước (có 22 mặt hàng), chiếm 83,8% tổng kim ngạch xuất khẩu (có 5 mặt hàng xuất khẩu trên 5 tỷ USD, chiếm 57,4%).

Kim ngạch xuất khẩu nhóm nông lâm thuỷ sản trong 4 tháng đầu năm 2023, ước đạt 9,68 tỷ USD, giảm 4,8% so  cùng kỳ năm trước, chiếm 8,9% tổng kim ngạch xuất khẩu. Những mặt hàng có kim ngạch xuất khẩu tăng trưởng cao trong nhóm này gồm: Gạo tăng 54,5%, rau quả tăng 19,4%; sắn tăng 26,3%. Ngược lại, một số mặt hàng có kim ngạch xuất khẩu giảm trong nhóm này như: thủy sản giảm 29%; cao su giảm 20%; hạt tiêu giảm 10,2%, chè các loại giảm 5,8%...

Tiếp nối những thành tựu trong những tháng đầu năm, xuất khẩu gạo tiếp tục là điểm sáng nổi bật trong xuất khẩu nhóm hàng nông lâm thủy sản trong tháng 4 khi tăng mạnh cả về lượng và trị giá xuất khẩu. Ước tính, xuất khẩu gạo tháng 4 tăng 14,4% về lượng và tăng 12,8% về kim ngạch xuất khẩu so tháng trước; tăng 98% về lượng và tăng 108% về kim ngạch xuất khẩu so cùng kỳ năm trước.

Kim ngạch xuất khẩu nhóm hàng công nghiệp chế biến, chế tạo tiếp tục giảm mạnh, ước đạt 91,16 tỷ USD, giảm 14,1% so cùng kỳ năm trước do chịu ảnh hưởng từ sự suy giảm kinh tế toàn cầu, tổng cầu giảm sút, nhu cầu của các thị trường xuất khẩu lớn giảm mạnh.

Nhìn chung, kim ngạch xuất khẩu của hầu hết các mặt hàng trong nhóm đều giảm so cùng kỳ năm trước. Trong đó, điện thoại và linh kiện có giá trị xuất khẩu lớn nhất, ước đạt 17,4 tỷ USD, chiếm 16% tổng kim ngạch xuất khẩu, giảm 17,3% so cùng kỳ năm trước; máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh kiện ước đạt 16 tỷ USD, giảm 8,9%; máy móc thiết bị, dụng cụ phụ tùng ước đạt 13 tỷ USD, giảm 5,9%; hàng dệt may ước đạt 9,6 tỷ USD, giảm 19,3%; giày dép các loại ước đạt 6,13 tỷ USD, giảm 16,3%; gỗ và sản phẩm gỗ đạt 3,86 tỷ USD, giảm 31,3%; Sắt thép các loại đạt 2,38 tỷ USD, giảm 27,9%.

Chỉ có một số ít mặt hàng có kim ngạch xuất khẩu tăng như giấy và sản phẩm từ giấy tăng 9%, phương tiện vận tải và phụ tùng tăng 12,8%.

Kim ngạch xuất khẩu nhóm nhiên liệu khoáng sản tiếp tục giảm mạnh, ước đạt 1,25 tỷ USD, giảm 17,8% so  cùng kỳ năm trước, do kim ngạch của hầu hết các mặt hàng đều giảm như: than đá giảm 98,9%; quặng và khoáng sản khác giảm 30,7%; xăng dầu các loại giảm 11,2%; dầu thô giảm 7,5%...

Về thị trường xuất khẩu hàng hóa 4 tháng đầu năm: Kim ngạch xuất khẩu của nước ta tới hầu hết các thị trường, đối tác thương mại lớn đều giảm. Trong đó, Hoa Kỳ là thị trường xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam với kim ngạch ước đạt 28,45 tỷ USD, chiếm 26% tổng kim ngạch xuất khẩu, giảm 21% so cùng kỳ; tiếp đến là Trung Quốc đạt 16,4 tỷ USD, giảm 7,9%; thị trường EU đạt 13,66 tỷ USD, giảm 14,1%; thị trường ASEAN đạt 11,1 tỷ USD, giảm 1,3%; Hàn Quốc đạt 7,8 tỷ USD, giảm 6,9%; Nhật Bản đạt 7,3 tỷ USD, giảm 0,9%.

Ảnh minh họa
Ảnh minh họa

Kim ngạch nhập khẩu hàng hóa tháng 4 giảm 8,1% so tháng trước

Kim ngạch nhập khẩu hàng hóa tháng 4/2023 ước đạt 26,03 tỷ USD, giảm 8,1% so tháng trước. Trong đó, khu vực kinh tế trong nước đạt 9,13 tỷ USD, giảm 13%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài đạt 16,9 tỷ USD, giảm 5,2%. So cùng kỳ năm trước, kim ngạch nhập khẩu hàng hóa tháng 4 giảm 20,5%, trong đó khu vực kinh tế trong nước giảm 19,4%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài giảm 21,1%.

Tính chung 4 tháng đầu năm, kim ngạch nhập khẩu hàng hóa ước đạt 102,22 tỷ USD, giảm 15,4% so cùng kỳ năm trước (cùng kỳ tăng 16,1%), trong đó khu vực kinh tế trong nước đạt 36,62 tỷ USD, giảm 11,4%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài đạt 65,6 tỷ USD, giảm 17,4%.

Trong 4 tháng đầu năm, có 19 mặt hàng nhập khẩu đạt trị giá trên 1 tỷ USD, chiếm tỷ trọng 75,8% tổng kim ngạch nhập khẩu (có 2 mặt hàng nhập khẩu trên 5 tỷ USD, chiếm 37,1%).

Về cơ cấu hàng hóa nhập khẩu: Chiếm 86% tổng kim ngạch hàng hóa nhập khẩu của Việt Nam trong 4 tháng đầu năm là nhóm hàng cần nhập khẩu (nguyên phụ liệu phục vụ sản xuất trong nước) với kim ngạch ước đạt 88 tỷ USD, giảm 18% so cùng kỳ 2022, do những khó khăn về đơn hàng xuất khẩu, trong hoạt động sản xuất, kinh doanh của các doanh nghiệp nên nhu cầu nhập khẩu nguyên phụ liệu sản xuất để phục vụ sản xuất giảm.

Trong đó, kim ngạch nhập khẩu máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh kiện đạt cao nhất, ước đạt 25,4 tỷ USD, giảm 13,9% so cùng kỳ năm trước. Tương tự, kim ngạch nhập khẩu hầu hết các mặt hàng khác cũng ghi nhận mức giảm như: nguyên phụ liệu thuốc lá giảm 73,3%; cao su các loại giảm 39,4%; quặng và khoáng sản khác giảm 34,4%; bông các loại giảm 30,7%; thép các loại giảm 25,8%; hóa chất giảm 24,5%; xăng dầu các loại giảm 17%; phân bón giảm 38,6%...

Kim ngạch nhập khẩu nhóm năng lượng tăng (khí đốt hóa lỏng tăng 5,1% so cùng kỳ; dầu thô tăng 13,8%, sản phẩm khác từ dầu mỏ tăng 5,7%) và nhóm nông thủy sản tăng như thủy sản tăng 20,8%, lúa mỳ tăng 6,9%, ngô tăng 10,6%, thức ăn gia súc và nguyên liệu tăng 5,8%.

Kim ngạch nhập khẩu nhóm hàng cần hạn chế nhập khẩu giảm 2,8% so cùng kỳ năm trước, ước đạt 6,6 tỷ USD. Trong đó, tăng cao nhất là kim ngạch nhập khẩu ô tô nguyên chiếc dưới 9 chỗ, tăng 51,7% và phế liệu sắt thép, tăng 27,7%.

Thị trường nhập khẩu hàng hóa trong 4 tháng đầu năm: Do những khó khăn trong sản xuất và xuất khẩu nên kim ngạch nhập khẩu hàng hóa của Việt Nam từ hầu hết các thị trường đều giảm so cùng kỳ năm trước.

Trong đó, Trung Quốc vẫn là thị trường nhập khẩu lớn nhất của Việt Nam với kim ngạch ước đạt 33,2 tỷ USD, giảm 13,4% so cùng kỳ năm trước; tiếp theo là Hàn Quốc ước đạt 16,7 tỷ USD, giảm 25,7%; thị trường ASEAN đạt 13,4 tỷ USD, giảm 17,1%; Nhật Bản đạt 6,9 tỷ USD, giảm 12,8%; thị trường EU đạt 4,38tỷ USD, giảm 17%; Hoa Kỳ đạt 4,08 tỷ USD, giảm 11,9%.

Cán cân thương mại của Việt Nam trong tháng 4 tiếp tục xuất siêu khoảng 1,51 tỷ USD, nâng tổng xuất siêu trong 4 tháng đầu năm là 6,35 tỷ USD (cùng kỳ năm trước xuất siêu 2,35 tỷ USD). Trong đó, khu vực kinh tế trong nước nhập siêu 8,04 tỷ USD; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (kể cả dầu thô).

Minh Anh