Thị trường XNK chủ lực
Theo các chuyên gia kinh tế, EVFTA được kỳ vọng sẽ góp phần làm GDP Việt Nam tăng thêm ở mức bình quân từ 2,18 - 3,25% (giai đoạn 2019 - 2023); 4,57% - 5,30% (giai đoạn 2024 - 2028) và 7,07% - 7,72% (giai đoạn 2029 - 2033).
Thị trường EU bao gồm 27 quốc gia, dân số 450 triệu người, GDP hằng năm đạt khoảng 16.000 tỷ USD cho thấy sự rộng lớn và sức hấp dẫn với Việt Nam trong việc thúc đẩy tăng tốc xuất khẩu qua thị trường này. Hiện, các thị trường thuộc Liên minh châu Âu (EU) - thành viên của Hiệp định Thương mại tự do Việt Nam - EU (EVFTA) là những thị trường xuất nhập khẩu chủ lực của Việt Nam ở EU.
Điều này là tin vui cho các DN Việt, đặc biệt với ngành xuất khẩu thủy hải sản. Bởi, EU là thị trường thủy sản quan trọng hàng đầu của Việt Nam khi chiếm 23 - 25% tổng lượng xuất khẩu hằng năm. Do đó, việc EVFTA có hiệu lực tác động tích cực đến xuất khẩu của ngành sang thị trường EU trong thời gian tới. Ngay sau khi EVFTA có hiệu lực, khoảng 840 dòng thuế đối với thủy sản của Việt Nam vào EU sẽ về mức 0%.
Về kim ngạch xuất khẩu chung, theo dữ liệu của Tổng cục Hải quan, năm 2019, Việt Nam xuất khẩu sang thị trường EU 41,7 tỷ USD, ngang bằng với kim ngạch xuất khẩu sang Trung Quốc. Những thị trường của các nhóm hàng xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam đều có sự xuất hiện của các thành viên EU.
Trong đó, điện thoại và linh kiện với kim ngạch đạt 12,36 tỷ USD; Nhóm hàng máy vi tính sản phẩm điện tử và linh kiện đạt 5,06 tỷ USD; Nhóm nông lâm thủy sản lớn thứ hai của Việt Nam (chiếm 15 - 17% kim ngạch xuất khẩu), chỉ sau Trung Quốc (20 - 22%); Ngoài ra, dệt may, giày dép, nông sản, máy móc, thiết bị, dụng cụ và phụ tùng… đều đang duy trì được kim ngạch hàng tỷ USD.
EVFTA tạo cơ hội để DN Việt Nam mở rộng thị trường
Ngay khi Hiệp định có hiệu lực, EU sẽ xóa bỏ thuế nhập khẩu đối với khoảng 85,6% số dòng thuế, tương đương 70,3% kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang EU. Sau 7 năm kể từ khi Hiệp định có hiệu lực, EU sẽ xóa bỏ thuế nhập khẩu đối với 99,2% số dòng thuế, tương đương 99,7% kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam.
Như vậy, có thể nói gần 100% kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang EU sẽ được xóa bỏ thuế nhập khẩu sau một lộ trình ngắn. Cho đến nay, đây là mức cam kết cao nhất mà một đối tác dành cho ta trong các hiệp định FTA đã được ký kết. Lợi ích này đặc biệt có ý nghĩa khi EU liên tục là một trong hai thị trường xuất khẩu lớn nhất của ta hiện nay.
Cơ hội, nhưng cũng là thách thức
Theo các chuyên gia và DN, các DN không dễ được hưởng thuế suất ưu đãi như cam kết tại EVFTA nếu không đáp ứng được các tiêu chuẩn, hàng rào kỹ thuật nghiêm ngặt do thị trường này đưa ra.
Do EU có thu nhập đầu người 36.000 USD/năm, cao hơn 3 lần thu nhập đầu người của Trung Quốc là 10.000 USD nên thị trường này hết sức khó tính, đòi hỏi hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam phải đáp ứng tiêu chuẩn của các quốc gia EU mới tận dụng được thời cơ của EVFTA.
Tuy nhiên, việc EVFTA được EU phê chuẩn là tin vui và có tác động tích cực tới DN Việt cũng như EU. Với các DN Việt, việc xuất khẩu sang EU sẽ có nhiều thuận lợi hơn khi thuế giảm xuống bằng hoặc thấp hơn mức thuế mà EU dành cho các nước nghèo trong khu vực ASEAN như Lào, Campuchia và Myanmar, tạo cơ hội để DN Việt Nam mở rộng thị trường.
Các hàng hóa mà Việt Nam xuất khẩu sang EU nhiều như dệt may, giày dép, thủy sản, nông sản... sẽ càng có thêm nhiều cơ hội tăng cường đưa hàng vào châu Âu. Các sản phẩm còn mới hoặc chưa xuất khẩu vào châu Âu như thịt gà, thịt heo... cần có thêm thời gian bởi phải đáp ứng các yêu cầu về vệ sinh an toàn dịch bệnh, an toàn thực phẩm rất cao mà EU đang áp dụng.
Song, bên cạnh những cơ hội, thì EVFTA cũng đặt các DN Việt Nam trước hàng loạt thách thức, trong đó, việc thực thi các cam kết trong EVFTA về các vấn đề thể chế, chính sách pháp luật sau đường biên giới, môi trường kinh doanh và chính sách, pháp luật...
Theo các cam kết kèm theo thì yêu cầu về quy tắc nguồn gốc xuất xứ cũng rất chặt chẽ, thông thường các mặt hàng muốn được hưởng ưu đãi thuế quan thì nguyên liệu phải đáp ứng được một tỷ lệ về hàm lượng nội khối nhất định (nguyên liệu có xuất xứ tại EU hoặc Việt Nam).
Đây là một thách thức lớn đối với các DN Việt bởi nguồn nguyên liệu cho sản xuất hàng xuất khẩu hiện nay chủ yếu được nhập khẩu từ Trung Quốc hoặc các nước trong ASEAN. Thêm vào đó là các yêu cầu bắt buộc về chất lượng, vệ sinh an toàn thực phẩm, dán nhãn, môi trường... của EU rất khắt khe và không dễ để đáp ứng.
Vai trò của Nhà nước
TS. Vũ Tiến Lộc, Chủ tịch Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) cho rằng, cộng đồng DN cần sát cánh với các cơ quan Chính phủ trong những nỗ lực thực thi EVFTA. DN chuẩn bị về tâm thế, về nguồn lực. Nhà nước, bên cạnh việc phối hợp với các hiệp hội DN tuyên truyền phổ biến, hướng dẫn cho DN về Hiệp định, thì việc chuẩn bị về thể chế là quan trọng nhất.
Để nâng cao năng lực thể chế chuẩn bị cho hội nhập không chỉ có việc cải cách để “nội luật hóa” bảo đảm tuân thủ các cam kết mà còn phải cải cách để tận dụng tốt nhất các cơ hội. Cải cách thể chế sâu, rộng hơn cam kết sẽ mở không gian phát triển cho nền kinh tế Việt Nam.
Chủ tịch VCCI kỳ vọng, nỗ lực cải cách thể chế thời hội nhập phải tiếp tục củng cố những nền tảng cạnh tranh minh bạch và công bằng; phát triển bền vững, bảo đảm hài hòa các mục tiêu kinh tế, xã hội, môi trường; hỗ trợ DN siêu nhỏ, nhỏ và vừa; thúc đẩy liên kết, phát triển công nghiệp hỗ trợ, tạo ra hệ sinh thái cộng sinh cùng có lợi giữa các FDI với DN trong nước. Có rất nhiều việc phải làm để phát huy hiệu quả của hội nhập.
Đối với các DN, ông Tô Hoài Nam, Phó Chủ tịch kiêm Tổng thư ký Hiệp hội DNVVN cho biết, điểm yếu của DN Việt là không hợp tác được với nhau. Muốn hợp tác với nhau, các DN phải luôn luôn tự cường và liêm khiết. Để làm vậy, đầu tiên phải tôn trọng và cam kết thương hiệu, hàng hoá, giữa các DN với nhau và với bạn hàng.
Chính phủ đang chỉ đạo rà soát, hoàn thiện thể chế, chính sách đầu tư, kinh doanh, theo đó sẽ nghiên cứu, rà soát, đề xuất trình Quốc hội xem xét sửa đổi, bổ sung hoặc ban hành một số đạo luật quan trọng để phù hợp với các quy định và tuân thủ nguyên tắc hợp tác trong khuôn khổ EVFTA đưa ra.
Bùi Quyền