Hiệp định RCEP cũng tạo nên một khuôn khổ ràng buộc pháp lý góp phần giúp môi trường thương mại công bằng trong khu vực và được kỳ vọng là động lực thúc đẩy thương mại góp phần phục hồi kinh tế trong bối cảnh hậu dịch Covid-19.
Hiệp định RCEP được 15 thành viên thực thi sẽ tạo ra một thị trường lớn với quy mô 2,2 tỷ người tiêu dùng, chiếm 30% dân số thế giới với tổng sản phẩm quốc nội (GDP) xấp xỉ 26,2 nghìn tỷ USD, chiếm khoảng 30% GDP toàn cầu và trở thành khu vực thương mại tự do lớn nhất trên thế giới.
Nói về RCEP, Bộ trưởng Bộ Công Thương Nguyễn Hồng Diên cho biết: Hiệp định này được 10 quốc gia thành viên ASEAN và 05 đối tác của ASEAN là Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc, Australia và New Zealand ký kết vào ngày 15/11/2020 bên lề Hội nghị cấp cao ASEAN lần thứ 37 do Việt Nam làm Chủ tịch.
Việc Hiệp định RCEP có hiệu lực từ ngày 01/01/2022 sẽ kết nối 04 Hiệp định Thương mại tự do mà ASEAN đã ký kết với từng đối tác trước đây, tạo thành 01 khu vực thương mại tự do mới hơn; trong đó áp dụng 01 quy tắc xuất xứ và các quy định tạo thuận lợi cho thương mại và đầu tư. Điều này giúp phát triển các chuỗi cung ứng khu vực, mở ra thị trường xuất khẩu ổn định, lâu dài cho Việt Nam cũng như tạo cơ hội thu hút đầu tư nước ngoài, góp phần phục hồi kinh tế sau dịch Covid-19.
Còn ông Lương Hoàng Thái, Vụ trưởng Vụ Chính sách thương mại đa biên, Bộ Công Thương thì nhận định, ngày 01/01/2022 cũng là thời điểm đúng như dự tính của ASEAN - thời điểm kinh tế thế giới có khả năng phục hồi.
Theo các chuyên gia kinh tế thì, khi Hiệp định RCEP có hiệu lực cơ hội mang lại cũng sẽ song hành với những khó khăn và thách thức. Trước hết, Hiệp định RCEP có thể mang đến sức ép cạnh tranh đối với hàng hóa, dịch vụ của Việt Nam.
Đặc điểm các nền kinh tế trong khu vực RCEP cho thấy nhiều đối tác có cơ cấu sản phẩm tương tự và năng lực cạnh tranh mạnh hơn Việt Nam, trong khi chất lượng và hàm lượng giá trị gia tăng của hầu hết sản phẩm của Việt Nam còn khiêm tốn. Vì vậy, khi Hiệp định RCEP có hiệu lực sức ép cạnh tranh sẽ gia tăng.
Ngoài ra, đầu vào sản xuất của Việt Nam vẫn còn phụ thuộc nhất định vào các nguồn nhập khẩu, đặc biệt khả năng cải thiện vị trí trong chuỗi giá trị khu vực cũng như mức độ tham gia cung cấp thương mại dịch vụ toàn cầu của Việt Nam còn hạn chế.
Tuy nhiên, kinh nghiệm hội nhập kinh tế quốc tế thời gian qua cho thấy khả năng của Việt Nam tham gia vào các chuỗi giá trị mới thiết lập trong khu vực ngày càng tăng lên cùng với việc đổi mới mạnh mẽ về thủ tục hành chính tạo điều kiện cho sản xuất kinh doanh và cải thiện môi trường đầu tư.
Các chuyên gia kinh tế cũng nêu: Việt Nam đã tham gia với các nước ASEAN và 05 nước đối tác trong Hiệp định RCEP theo các hiệp định thương mại tự do (FTA) giữa nội khối ASEAN, cụ thể là Hiệp định Thương mại hàng hóa ASEAN (ATIGA) và các FTA giữa ASEAN với từng đối tác trong số 5 đối tác trên (gọi là các hiệp định FTA ASEAN+1).
Vì vậy, quá trình tự do hoá thuế quan với các nước ASEAN đã được thực hiện trong suốt hơn 20 năm qua và với 05 nước đối tác trên là trong vòng khoảng 15 năm qua. Việc thực hiện Hiệp định RCEP sau khi được thông qua sẽ không tạo ra cú sốc về giảm thuế quan đối với Việt Nam.
Hơn nữa, Hiệp định RCEP về cơ bản là thỏa thuận mang tính kết nối các cam kết đã có của ASEAN với 05 đối tác với ASEAN trong một Hiệp định FTA. Do đó, về cơ bản sẽ không tạo ra cam kết mở cửa thị trường hay áp lực cạnh tranh mới mà chủ yếu hướng đến tạo thuận lợi cho doanh nghiệp, nhất là doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Vì vậy, Việt Nam không quá lo ngại về khả năng tăng nhập siêu. Không những thế, các doanh nghiệp Việt Nam chủ yếu là doanh nghiệp vừa và nhỏ nên sẽ có nhiều cơ hội tham gia các chuỗi cung ứng mới do Hiệp định RCEP tạo ra nếu có thể khai thác triệt để lợi ích.
Các chuyên gia cũng đưa ra nhiều khuyến cáo đối với doanh nghiệp là muốn tham gia “sân chơi” mở rộng như RCEP, đòi hỏi cần nắm vững quy định pháp lý để hạn chế rủi ro và những nguy cơ tiềm ẩn khi ký kết hợp tác với đối tác nước ngoài.
Đặc biệt, doanh nghiệp cần chủ động tìm hiểu các vụ kiện hay tranh chấp thương mại để nghiên cứu, tích lũy kinh nghiệm cũng như tìm hiểu kỹ, chính xác mọi thông tin của đối tác về năng lực tài chính và các yêu cầu về chất lượng sản phẩm, nhằm bảo đảm quá trình giao kết hợp đồng được đúng thủ tục pháp lý, quy định pháp luật và hài hòa lợi ích của các bên.
Để hỗ trợ các doanh nghiệp hạn chế những nguy cơ khi thực thi Hiệp định RCEP, ông Chu Thắng Trung, Cục Phòng vệ thương mại, Bộ Công Thương khẳng định, Bộ sẽ phối hợp các đơn vị liên quan đẩy mạnh tuyên truyền tới cộng đồng doanh nghiệp về phòng vệ thương mại.
Chẳng hạn như Đề án về nâng cao năng lực phòng vệ thương mại trong bối cảnh tham gia các FTA thế hệ mới; chú trọng hoạt động cung cấp thông tin cảnh báo sớm cho các bộ, ngành, địa phương, hiệp hội doanh nghiệp.
Đại diện Cục Xuất nhập khẩu, Bộ Công Thương cũng chỉ rõ, các quy định về quy tắc xuất xứ trong Hiệp định RCEP có một số điểm mới nhưng lại không quá khó cho doanh nghiệp khi thực thi. Vì thế, hiệp định này sẽ mang lại nhiều cơ hội cho hàng hóa Việt Nam, góp phần giúp doanh nghiệp tham gia sâu hơn vào chuỗi cung ứng khu vực.
Cụ thể, với mặt hàng thủy sản, các hiệp định trước đây đều yêu cầu xuất xứ thuần túy tại Việt Nam nhưng Hiệp định RCEP cho phép nhập khẩu con giống, nuôi tại Việt Nam và xuất khẩu mà vẫn được hưởng ưu đãi.
Bên cạnh việc nâng cao tính chủ động từ phía doanh nghiệp sẽ luôn có sự đồng hành của cơ quan quản lý Nhà nước để có thể khai thác triệt để hiệu quả những lợi thế mà Hiệp định RCEP mang lại.
Q.N (th)