Sau khi tu nghiệp ở nước ngoài, trở về nước, người kỹ sư trẻ nhận công tác tại Nhà máy nhiệt điện Việt Trì rồi Nhà máy điện Yên Phụ. Hơn nửa thế kỷ trôi qua, với ông Lê Nhân Vĩnh - nguyên Giám đốc Công ty Điện lực 1 (tiền thân của Tổng công ty Điện lực miền Bắc - EVNNPC), vẫn vẹn nguyên ký ức về những năm tháng đau thương nhưng hào hùng khi mà bom đạn của máy bay Mỹ ném xuống tàn phá nhà máy điện, cướp đi sinh mạng của đồng chí, đồng nghiệp. Nhưng dòng điện vẫn sáng lên, như ý chí, như lòng yêu nước của con người Việt Nam.
Ông Vĩnh sẽ không bao giờ quên được ngày 24-6-1965, ngày mà máy bay Mỹ bắt đầu bắn phá khu Công nghiệp Việt Trì và trọng điểm là Nhà máy điện Việt Trì. Do thất bại liên tiếp ở chiến trường miền Nam, Đế quốc Mỹ đã sử dụng không lực leo thang mở rộng chiến tranh ở miền Bắc, mức độ đánh phá ngày một ác liệt. Thế nhưng, với phương châm “Tổ quốc cần điện như cơ thể cần máu”, lực lượng tự vệ Nhà máy điện Việt Trì đã xác định, bằng mọi giá phải bám lò, bám máy, giặc đến là đánh, giặc đi lại sản xuất, quyết không để mất điện.
Máy tua bin số 3 của Nhà máy điện Việt Trì đưa vào vận hành an toàn năm 1962
Thời gian này, Nhà máy tổ chức phong trào thi đua 3 giỏi: Sản xuất giỏi, chiến đấu giỏi, tổ chức đời sống giỏi, đồng thời, giương cao tinh thần “chắc tay búa, vững tay súng”. Nhà máy đã thành lập 5 đại đội tự vệ, quân số lên đến 500 người. Xung quanh Nhà máy điện và dọc tuyến đường dây xây dựng 27 trận địa phòng không, đào 32.000m hào giao thông, hầm trú ẩn liền đường liền nhà; 100 hầm sơ tán thiết bị, đắp 108 ụ súng bắn máy bay dọc đê sông Hồng và trên các tầng cao của Nhà máy. Với khẩu hiệu “Một tấc không đi, một ly không rời”, cán bộ, công nhân Nhà máy thay nhau trực chiến 24/24 giờ.
Ngày 12-3-1967, hàng tốp máy bay Mỹ điên cuồng tập trung bắn phá Nhà máy, phá hỏng 2 lò hơi, hệ thống phân phối điện cao thế, đường ống dẫn nước tuần hoàn… hàng trăm tấn bê tông, sắt thép đổ sập xuống gian máy chính.
Bầu trời Việt Trì đen kịt, đặc quánh khói bom.
Trận bom của giặc Mỹ đã làm 11 cán bộ, công nhân hy sinh ngay tại vị trí làm việc, 18 người bị thương. Thế nhưng việc tìm kiếm thi thể đồng đội dưới hàng trăm tấn bê tông đổ nát thật hết sức nan giải. Khi ấy, ông Lê Nhân Vĩnh với trách nhiệm được giao là Trưởng ban khôi phục phòng không đã tập hợp được 15 anh em đều là “lính tình nguyện”làm nhiệm vụ tìm kiếm đồng đội. Họ cùng nhau quyết tâm, chỉ dừng lại khi đã tìm đủ được số anh em hy sinh.
Phía trên những con người đang đào cuốc, bới đống đổ nát, bom đạn chưa dứt, từng hồi còi báo động vẫn liên hồi.
Để rồi, sau 15 ngày đêm vất vả tìm kiếm, thi thể 11 anh chị em đã được tìm đủ…
CBCNV Nhà máy điện Yên Phụ diễn tập đánh địch giáp lá cà. (Hà Nội tháng 6/1966)
Những năm chiến đấu ác liệt nhất chống lại cuộc chiến tranh phá hoại bằng không quân của Đế quốc Mỹ, Nhà máy điện Yên Phụ được nhân dân Thủ đô mệnh danh là “Cửa tử”, bởi đây là mục tiêu trọng điểm bắn phá của máy bay Mỹ. Chỉ riêng 12 ngày đêm cuối năm 1972, tình trạng báo động xảy ra liên tục và khẩn cấp. Đế quốc Mỹ đã sử dụng nhiều loại máy bay hiện đại như Thần Sấm, Con Ma, B52 với các loại bom đạn có sức công phá lớn trút xuống Thủ đô, trong đó, “Nhà máy Y” (tên gọi Nhà máy điện Yên Phụ thời kỳ chiến tranh) là một trong những trọng điểm đánh phá.
Ông Vĩnh nhớ lại, trận bom cuối cùng của không lực Hoa Kỳ đánh vào Nhà máy điện Yên Phụ là ngày 21-12-1972, giặc Mỹ tiến hành tổng tiến công với ý đồ hủy diệt Nhà máy. Khi đó, những người không trực tiếp tham gia sản xuất được bố trí đi sơ tán; cán bộ, công nhân sản xuất trực tiếp ở phân xưởng lò, phân xưởng điện, phân xưởng máy ở lại trực chiến.
Từ tờ mờ sáng, còi báo động đã vang lên liên tục. Mỗi lần báo động, công suất điện lại dao động lớn, anh em công nhân rất vất vả để điều chỉnh lò. Khoảng 13 giờ, ông Lê Nhân Vĩnh - lúc bấy giờ là Phó Giám đốc Nhà máy đi kiểm tra sản xuất và đang trao đổi công việc với anh Đặng Đức Thọ - Tổ trưởng phân xưởng lò và anh Vũ Xuân Hòa thì bỗng một tiếng nổ vang trời, kèm theo là một loạt tiếng nổ khác inh tai nhức óc. Máy bay Mỹ đã phóng những chùm bom lazer xuống Nhà máy, làm sập toàn bộ gian lò kéo theo hàng trăm tấn bê tống cốt thép và than từ nóc lò đổ sập xuống… Khói bom, khói đạn quyện với than bụi cuồn cuộn bốc lên mịt mù, khét lẹt, tất cả đều bị ho sặc sụa và ngạt thở, không thể nhìn thấy bất cứ vật gì xung quanh. “Khi ấy, chúng tôi chỉ biết hét to hỏi nhau xem ai còn, ai mất. Anh Hòa bị mảng bê tông lớn rơi đè lên người. Anh Thọ bị vùi trong đống than khổng lồ. Họ đều đã hy sinh… Còn tôi bị sức ép của bom hất văng ra xa”, ông Vĩnh đau xót nhớ lại.
Lãnh đạo Nhà máy đã tổ chức trang trọng lễ truy điệu, tiễn đưa các anh về nơi an nghỉ cuối cùng, đồng thời, phát động đợt thi đua, biến đau thương thành hành động, quyết tâm khôi phục với thời gian nhanh nhất, đưa Nhà máy trở lại sản xuất.
Sau khi giặc Mỹ ngừng ném bom miền Bắc, ông Lê Nhân Vĩnh được phân công về làm Giám đốc Nhà máy Nhiệt điện Ninh Bình. Công trình do Trung Quốc giúp đỡ xây dựng, được khởi công vào ngày 15-3-1971 tại thị xã Ninh Bình với 4 tổ máy, tổng công suất 100 MW. Công trình đang thi công thì giặc Mỹ thực hiện không kích miền Bắc lần thứ 2. Để bảo toàn con người và tài sản, công trình phải tạm dừng thi công.
Nhà máy Nhiệt điện Ninh Bình
Ngày 17-1-1974, Bộ trưởng Bộ Điện và Than đã ký Quyết định thành lập Nhà máy Nhiệt điện Ninh Bình và chỉ sau đó 4 tháng, với khí thế thi đua sôi nổi, hòa chung với chiến thắng của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, các đơn vị thi công trên công trường xây dựng Nhà máy đã lần lượt đưa các tổ máy từ số 1 đến số 4 vào vận hành. Lưới điện miền Bắc hàng năm có thêm sản lượng điện từ 550 đến 600 triệu kWh và trong suốt những năm 70, 80 của thế kỷ 20, Nhà máy điện Ninh Bình là một trong 3 nguồn phát chủ yếu của lưới điện miền Bắc phục vụ cho công cuộc xây dựng kinh tế, hàn gắn vết thương chiến tranh, xây dựng và bảo vệ đất nước.
Nhiệt điện Ninh Bình với công nghệ thiết bị thuộc vào thế hệ cũ, lại xây dựng trong điều kiện chiến tranh nên không đạt các chỉ tiêu kinh tế kỹ thuật, hiệu suất thấp. Với một Nhà máy điện như vậy nhưng phải gánh vác trọng trách là một trong 3 nguồn chủ yếu để phục vụ công cuộc phục hồi và phát triển kinh tế thì những người vận hành phải căng hết sức mình, làm việc gấp đôi gấp ba lần bình thường. Trong khi đó, đất nước vừa ra khỏi chiến tranh, miền Bắc trước đó là hậu phương của chiến trường, tất cả mọi nguồn lực đều dành hết cho chiến trường miền Nam, mọi thứ đều thiếu thốn, không đủ cho nhu cầu tối thiểu của mỗi người.
Sổ gạo lúc bấy giờ là thứ quan trọng nhất trong mỗi gia đình và lương thực, thực phẩm do Nhà nước quản lý phân phối rất chặt chẽ. Ông Nguyễn Chấn - Bộ trưởng Bộ Điện Than xuống Nhà máy Nhiệt điện Uông Bí công tác nhưng không có phiếu gạo 220gram nộp cho nhà bếp, Giám đốc Lê Nhân Vĩnh - lúc bấy giờ là Giám đốc Công ty Điện lực 1 đề nghị đưa phiếu gạo cho Bộ trưởng Nguyễn Chấn nhưng phải thông qua phê duyệt của Đảng ủy mới được chuyển phiếu gạo. Thời ấy, không có sự phân biệt giữa Giám đốc và công nhân viên, chế độ suất ăn như nhau.
Những năm tháng đó không chỉ đánh dấu sự khan hiếm vật chất, mà chính trong sự khó khăn ấy, người ta lại nhận ra rằng chưa bao giờ cuộc sống lại ăm ắp tình thương, tình nghĩa đồng chí đồng đội và đồng nghiệp với tinh thần đoàn kết như thế, để cùng nhau vượt qua gian khó chung của đất nước, của mỗi người.
Từ năm 1976 đến cuối năm 1986, đây được coi như một giai đoạn khó khăn nhất của nền kinh tế Việt Nam trong thế kỷ XX, vì vậy, cán bộ, công nhân ngành điện phải nỗ lực gấp đôi để “điện phải đi trước một bước”, phục vụ phát triển nền kinh tế. Lịch sử đất nước trực tiếp ảnh hưởng tới lịch sử ngành điện, không thể tách rời.
Giai đoạn ấy, chức Giám đốc không phải là một chức vụ hành chính mà được xem như một nghề - nghề thợ điện. Đã là nghề thì phải có đào tạo, có sát hạch, do đó lãnh đạo Công ty thống nhất đưa ra văn bản cho tất cả 27 đơn vị xem cán bộ nào có khả năng làm Giám đốc thì lên danh sách để đào tạo. Khóa 1 do Giám đốc Lê Nhân Vĩnh làm Hiệu trưởng (năm 1992), có 28 học viên đào tạo “nghề” 1 năm, 1 tháng học lái xe, 1 tháng học Tiếng Anh. Chủ tịch Hội đồng thành viên Tổng công ty Điện lực miền Bắc (EVNNPC) Thiều Kim Quỳnh đương nhiệm hiện nay là một trong số học viên khóa đầu tiên ấy.
Giờ đây, những thành tựu kinh tế đã khẳng định sự đúng đắn của chính sách mới. Công ty Điện lực ra đời tiếp nhận một cơ sở vật chất với quy mô hết sức nhỏ bé, thì nay sau nửa thế kỷ đã lớn mạnh trở thành một tổng công ty - Tổng công ty Điện lực miền Bắc (EVNNPC) phân phối có quy mô lưới điện lớn nhất trong Tập đoàn Điện lực Việt Nam, có tăng trưởng phụ tải cao nhất và số lượng khách hàng lớn nhất trong 5 tổng công ty phân phối của nước ta.
Hà Giang
























