Ngăn chặn nạn hàng giả, hàng nhái trên sàn thương mại điện tử (Ảnh minh họa)
Hiện nay, các sàn giao dịch thương mại điện tử là nơi tập trung phần lớn giao dịch thương mại điện tử B2C (từ doanh nghiệp tới khách hàng) và C2C (người tiêu dùng liên kết trực tuyến với nhau), đồng thời cũng là nơi mà vấn nạn hàng giả, hàng vi phạm sở hữu trí tuệ, hàng không rõ nguồn gốc xuất xứ được phản ánh rõ nét nhất.
Thực tiễn cho thấy, mọi hoạt động từ xét duyệt thông tin người bán, đăng tải thông tin hàng hóa, giao dịch, thanh toán đều thông qua đơn vị vận hành sàn giao dịch thương mại điện tử. Trong khi đó, nhiều sàn do có doanh thu từ việc thu phí giao dịch, đã thả lỏng việc xét duyệt hồ sơ của đối tượng tham gia sàn, dẫn đến hàng hóa không rõ nguồn gốc xuất xứ, hàng giả, hàng nhái tràn lan trên mạng mà không có biện pháp kiểm soát; nhiều mặt hàng còn đăng tải bằng ngôn ngữ bản địa như tiếng Trung, tiếng Hàn... khiến người tiêu dùng lúng túng khi tiếp cận thông tin.
Điển hình là cuối tháng 2, đầu tháng 3/2020, Cục Thương mại điện tử và Kinh tế số cho biết đã rà soát tổng số 463.865 gian hàng và 1.755.559 sản phẩm; đã xử lý khoảng 5.200 gian hàng với trên 21.000 sản phẩm vi phạm.
Để hạn chế tình trạng nói trên, yêu cầu cấp thiết đặt ra là cần sửa đổi Nghị định 52, theo đó có những quy định cụ thể về thông tin hàng hóa, dịch vụ cần được đăng tải trên website thương mại điện tử nói chung và sàn giao dịch thương mại điện tử nói riêng, tăng cường nghĩa vụ của chủ sở hữu các sàn giao dịch thương mại điện tử trong việc kiểm soát, sàng lọc thông tin, đồng thời ràng buộc trách nhiệm của chủ thể này với những giao dịch được tiến hành trên sàn từ người bán nước ngoài.
Cụ thể, điều 30, Nghị định 52 sẽ được điều chỉnh theo hướng: Thông tin về hàng hóa, dịch vụ được trưng bày, giới thiệu trên website, ứng dụng thương mại điện tử bán hàng phải có các nội dung sau: Tên hàng hóa, dịch vụ; Mô tả đầy đủ thông tin về hàng hóa, dịch vụ để khách hàng có thể xác định chính xác các đặc tính của hàng hóa, dịch vụ nhằm tránh sự hiểu nhầm khi quyết định việc đề nghị giao kết hợp đồng; Xuất xứ đối với hàng hóa hoặc đơn vị cung ứng dịch vụ; Các thông tin khác theo quy định pháp luật chuyên ngành liên quan đến ghi nhãn hàng hóa hoặc cung cấp nội dung về hàng hóa, dịch vụ đó.
PV