Việt Nam - Philippines đã ký kết nhiều văn kiện quan trọng như: Hiệp định Thương mại Việt Nam - Philippines (01/1978); Hiệp định Khuyến khích và Bảo hộ đầu tư Việt Nam - Philippines (02/1992); Hiệp định thành lập Uỷ ban Hỗn hợp về Thương mại và Kinh tế Việt Nam - Philippines (02/1992); Thoả thuận lập Uỷ ban Hợp tác song phương (03/1994); Bản Thỏa thuận về Hợp tác xúc tiến Thương mại (08/2007); Chương trình Hành động Việt Nam - Philippines giai đoạn 2007-2010 (08/2007); Chương trình Hành động Việt Nam - Philippines giai đoạn 2011-2016 (10/2011)…
Ngày 30/12/2010, hai nước đã ký kết Bản ghi nhớ thương mại gạo giữa Chính phủ nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam và Chính phủ nước Cộng hòa Philippines giai đoạn 2011-2013; ký Nghị định thư sửa đổi gia hạn Bản ghi nhớ năm 2010 cho giai đoạn 2014-2016 vào ngày 06/01/2014; ký Nghị định thư sửa đổi Bản ghi nhớ năm 2010 bổ sung Vinafood I cùng Vinafood II thực hiện các hợp đồng gạo tập trung tại thị trường Philippines vào ngày16/11/2015, Công hàm trao đổi gia hạn đến năm 2018 (ký vào tháng 12/2016, hiệu lực đến hết 31/12/2018) (PV- những văn bản về nhập khẩu gạo đã hết hiệu lực do nước bạn cho nhập khẩu gạo tự do); Công hàm trao đổi gia hạn đến năm 2020 (ký vào ngày 11/02/2019, hiệu lực đến hết 31/12/2020). Tháng 03/2019, hai nước đã ký Chương trình hành động triển khai quan hệ Đối tác chiến lược giai đoạn 2019-2024.
Với những văn kiện hợp tác đã ký kết, thời gian qua, mối quan hệ giữa Việt Nam và Philippines phát triển tốt đẹp trên nhiều lĩnh vực. Trong đó, hợp tác thương mại là điểm sáng. Philippines hiện là đối tác thương mại đứng thứ 16 của Việt Nam trên thế giới và thứ 6 trong ASEAN (sau Thái Lan, Malaysia, Indonesia, Campuchia và Singapore) và là một trong những thị trường Việt Nam xuất siêu trong những năm gần đây.
Năm 2023, tổng kim ngạch xuất nhập khẩu của Việt Nam và Philippines đạt 7,8 tỷ USD, giảm 0,1% so với năm 2022, trong đó xuất khẩu của Việt Nam sang Philippines đạt hơn 5,1 tỷ USD, tăng 1%. Nhập khẩu của Việt Nam từ Philippines đạt 2,7 tỷ USD, giảm 2,2% so với cùng kỳ năm 2022.
Các nhóm hàng xuất khẩu chính của Việt Nam sang Philippines bao gồm: Gạo (đạt 1,8 tỷ USD, tăng 17,6%); Clanhke và xi măng (đạt 358,3 triệu USD, giảm 1,2%); Máy móc, thiết bị, dụng cụ, phụ tùng khác (đạt 352,1 triệu USD, giảm 22%); Phương tiện vận tải và phụ tùng (đạt 221 triệu USD, tăng 65,7%); Máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh kiện (đạt 193,7 triệu USD, tăng 3.2%); Điện thoại các loại và linh kiện (đạt 153,2 triệu USD, giảm 25,9%); Cà phê (đạt 152,9 triệu USD, tăng 7,8%); Hàng thủy sản (đạt 133,9 triệu USD, tăng 9,5%); Hàng dệt, may (đạt 125,9 triệu USD, giảm 9,7%); Sắt thép các loại (đạt 111,4 triệu USD, giảm 64,8%); Giày dép các loại (đạt 104,7 triệu USD, tăng 40,2%); Xơ, sợi dệt các loại (đạt 82,7 triệu USD, giảm 16%); Sản phẩm hóa chất (đạt 79,2 triệu USD, giảm 7,7%); Dây điện và dây cáp điện (đạt 71,8 triệu USD, giảm 6,4%); Sản phẩm từ chất dẻo (đạt 60,8 triệu USD, giảm 13,9%); Kim loại thường khác và sản phẩm (đạt 60,2 triệu USD, giảm 25,7%); Xăng dầu các loại (đạt 59,6 triệu USD, tăng 5139%....
Về nhập khẩu, trong năm 2023 nhập khẩu từ Philippines của Việt Nam đạt 2,7 tỷ USD, giảm 2,2% so với cùng kỳ năm 2022. Trong đó, các nhóm hàng nhập khẩu chính bao gồm: Máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh kiện (đạt 1,6 tỷ USD, giảm 6,6%); Máy móc, thiết bị, dụng cụ, phụ tùng khác (đạt 277,7 triệu USD, giảm 0,6%); Kim loại thường khác (đạt 174,3 triệu USD, tăng 8,4%); Dây điện và dây cáp điện (đạt 88,9 triệu USD, tăng 75%); Linh kiện, phụ tùng ô tô (đạt 20,1 triệu USD, tăng 2,2%); Thức ăn gia súc và nguyên liệu (đạt 16,9 triệu USD, giảm 12,5%); Sản phẩm từ chất dẻo (đạt 15,8 triệu USD, tăng 28,4%); Bánh kẹo và các sản phẩm từ ngũ cốc (đạt 15 triệu USD, tăng 13,5%); Phân bón các loại (đạt 14,4 triệu USD, giảm 14,4%); Chất dẻo nguyên liệu (đạt 13,3 triệu USD, giảm 60,2%); Chế phẩm thực phẩm khác (đạt 11,5 triệu USD, giảm 46,3%); Sản phẩm hóa chất (đạt 10 triệu USD, giảm 33,7%)...
Đại sứ đặc mệnh toàn quyền Việt Nam tại Philippines Lại Thái Bình cho rằng, hợp tác kinh tế, thương mại giữa hai nước còn rất nhiều dư địa. Bên cạnh các mặt hàng, lĩnh vực truyền thống như: Gạo, cà phê, hạt tiêu... hai nước có thể hướng tới việc mở cửa thị trường các mặt hàng tiềm năng khác của nhau như: Rau xanh, hoa quả tươi, thủy hải sản... Hai bên phấn đấu đưa kim ngạch thương mại hai chiều sớm đạt 10 tỷ USD, trong đó coi trọng thương mại gạo. Đồng thời tăng cường thu hút và khuyến khích các doanh nghiệp hai nước tìm hiểu cơ hội, mở rộng đầu tư tại thị trường của nhau.
Cũng theo lãnh đạo Vụ Thị trường Châu Á - Châu Phi, những năm gần đây, Philippines tiếp tục là thị trường xuất khẩu gạo lớn nhất của Việt Nam. Năm 2020, kim ngạch xuất khẩu gạo của Việt Nam sang Philippines đạt 1 tỷ USD, tương đương với 2,2 triệu tấn gạo, chiếm 65% tổng lượng xuất khẩu gạo của Việt Nam ra thế giới.
Đến năm 2021, kim ngạch xuất khẩu gạo của Việt Nam sang Philippines đạt 1,3 tỷ USD, tương đương với 2,5 triệu tấn, tăng 18,5% về kim ngạch và 10,7% về lượng so với năm 2020, qua đó tiếp tục là thị trường nhập khẩu gạo lớn nhất của Việt Nam.
X.Hải (t/h)